Friday 24 June 2011

Giải Mã Nhân Duyên 1

PHẬT LỊCH 2555
VESAK 2600


Giải Mã Tóm Lược
Hệ Thống Pháp Nhân Duyên
Theo 12 Cách Quán Căn Bản

(Phần 1)



Ñ_o_Ð



Lời Tựa

Từ hơn hai ngàn năm qua đã có rất nhiều các luận thuyết đưa ra nhằm giải thích hệ thống Nhân Duyên (hay Pháp Duyên Khởi) của Đức Phật. Tuy nhiên, cho đến nay, Thánh lý này vẫn còn ẩn chứa nhiều diệu pháp chưa được nhận thức thích đáng.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên, trong đó, xét về mặt học thuật, có hai lý do chủ yếu:

(1) Phần lớn các học thuyết đã không vận dụng sát sao những lời dạy của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni để lý giải các pháp môn của Đức Phật;

(2) và đồng thời không căn cứ theo các nguyên tắc của phương pháp luận nghiên cứu khách quan, nên đã không tránh khỏi mang tính chủ quan của nhà luận giải. 

Do vậy, bản giải mã này căn cứ theo hai nguyên tắc căn bản:

­_ Thứ nhất, vận dụng chính những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để giải mã hệ thống pháp Nhân Duyên. Trung thành với nguyên tắc đó, ngay trong phần nội dung quan trọng của lời tựa này cũng xin trân trọng ghi lại những lời khuyến giáo của Đức Thế Tôn về các Đại căn cứ địa tối quan trọng mà các đệ tử Phật phải luôn ghi nhớ:

“-- Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói như sau: "Tại trú xứ kia có vị trưởng lão, vị này là bậc nghe nhiều, được trao truyền kinh điển, bậc trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu. Ðối diện với vị trưởng lão ấy, tôi nghe như vậy, đối diện với vị trưởng lão ấy, tôi lãnh thọ như vậy: "Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư””.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy, không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật.

Nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương xứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và các Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng.

-- Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói như sau: "Tại trú xứ kia có vị trưởng lão, vị này là bậc nghe nhiều, được trao truyền kinh điển, trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu. Ðối diện với vị trưởng lão ấy, tôi nghe như vậy, đối diện với vị trưởng lão ấy, tôi lãnh thọ như vậy: "Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư””.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy, không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật.

Nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này là lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và các Trưởng lão ấy đã thọ giáo chơn chánh”. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại căn cứ địa thứ tư các Thầy cần phải thọ trì.”  (Xem thêm các Đại căn cứ địa thứ nhất, thứ hai, thứ ba trong Tăng Chi tập 2, Chương 4, tr.135-140 = [I.4.180.2-9])

_ Thứ hai, bản giải mã này căn cứ trên Phương pháp luận nghiên cứu khách quan khoa học trong việc phân cấp thứ tự các tài liệu, kinh văn. Theo những nguyên tắc khách quan khoa học này, các Kinh điển nguyên thủy Nikaya và Luật Patimokkha được kết tập lần đầu tiên phải được xem là các kinh văn tài liệu cấp I, là tư liệu nguồn; và phải được dùng làm căn bản để nghiên cứu, so sánh, đối chiếu đầu tiên. Chính vì lẽ đó, tất cả các trích dẫn trong phần giải mã này đều dựa theo bộ Đại Tạng Kinh Nikaya bản dịch Việt ngữ từ nguyên bản chữ Pali của Hòa Thượng Thích Minh Châu.

Hy vọng bản giải mã này, cũng như tất cả các luận thuyết từ trước đến nay, sẽ được tham cứu và tìm hiểu theo tinh thần nêu trên.

Pani Giới Pháp

***

I. Khái Quát

Trong toàn bộ hệ thống giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hệ thống Thánh lý Nhân Duyên – hay pháp Duyên khởi – có một vai trò quan trọng đặc biệt. Mối liên hệ này đã được chính Đức Thế Tôn xác định rõ trong Đại Kinh Dấu Chân Voi: "Ai thấy được lý Duyên khởi, người ấy thấy được Pháp; ai thấy được Pháp, người ấy thấy được lý Duyên khởi”  (Trung Bộ tập 1, bài kinh số 28 = TB1, 28 = [Vd.4.25]):

Thông thường Pháp Nhân Duyên được xem như một hệ thống với 12 chi phần căn bản, mặc dù tùy trường hợp cụ thể có khi hệ thống này được phân tích nhiều hơn hoặc ít hơn 12 chi phần. Hệ thống pháp Nhân Duyên hay Thánh lý 12 Chi phần Nhân Duyên (12 CPND) được định danh theo thứ tự từ chi phần đầu đến chi phần cuối như sau:

Vô Minh -- Hành -- Thức -- Danh Sắc -- Sáu Xứ (Lục Nhập) -- Xúc -- Thọ -- Ái -- Thủ -- Hữu -- Sanh -- Già, Chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

Trong kinh Nikaya, Đức Thế Tôn đã định nghĩa rất cụ thể sự nhận thức và thể nhập hệ thống Thánh lý Nhân Duyên với trí tuệ: “Thế nào là Thánh lý được khéo thấy, khéo thể nhập với trí tuệ? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử quán sát như sau: "Do cái này có, cái kia có. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có, cái kia không có. Do cái này diệt, cái kia diệt”.

Tức là do duyên vô minh, có các hành. Do duyên các hành có thức. Do duyên thức có danh sắc. Do duyên danh sắc có sáu nhập. Do duyên sáu nhập có xúc. Do duyên xúc có thọ. Do duyên thọ có ái. Do duyên ái có thủ. Do duyên thủ có hữu. Do duyên hữu có sanh. Do duyên sanh có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Do vô minh diệt không có dư tàn, nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này diệt. Ðây là Thánh lý được khéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ.”  (Tăng Chi Bộ, Chương 10, bài kinh số 92, trang 490 = TC X:92, tr. 490 = [I.10.92.4])

Để thể nhập được Thánh lý 12 CPND, hệ thống này cần phải được quán sát và nhận thức theo nhiều hệ quy chiếu khác nhau. Tùy theo mỗi cách quán, cùng một chi phần sẽ có những ý nghĩa khác nhau và các chi phần này liên hệ với nhau theo nhiều chiều, nhưng tất cả đều chỉ nhằm mục đích thực tri khổ và đoạn diệt khổ. Quán xét hệ thống 12 CPND theo chiều hướng này cũng là thực thi mục tiêu duy nhất của Phật pháp: Chư Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Như Lai chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ” (TB1, 22 = [Sb.4.35]).

Xuyên suốt toàn bộ kinh tạng nguyên thuỷ Pali là sự phản ảnh trung thực cho lời dạy trên. Do đó, tuệ tri được 12 CPND sẽ giúp nhận thức và lý giải rõ ràng hơn ý nghĩa các bài kinh và toàn bộ hệ thống giáo pháp của Đức Phật trong kinh tạng Nikaya.

Nói đến kinh tạng Nikaya là phải nói đến hệ thống 37 Phẩm Trợ Đạo. Nói đến hệ thống 37 Phẩm Trợ Đạo là phải bao gồm hệ thống Bốn Niệm Xứ. Nói đến hệ thống Bốn Niệm Xứ là phải bao gồm hệ thống quán Pháp.

Theo Kinh Niệm Xứ (TB1, 10 = [U.8]), trong phần quán pháp, Đức Thế Tôn dạy phải quán pháp theo sáu cách khác nhau: “Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp”.

Hệ thống 12 CPND là một pháp, do đó cũng phải quán pháp này theo sáu cách:

1. Quán pháp 12 CPND trên các nội pháp.
2. Quán pháp 12 CPND trên các ngoại pháp.
3. Quán pháp 12 CPND trên các nội pháp, ngoại pháp.
4. Quán tánh sanh khởi trên các pháp 12 CPND.
5. Quán tánh diệt tận trên các pháp 12 CPND.
6. Quán tánh sanh diệt trên các pháp 12 CPND.

Bên cạnh đó, trong các bài kinh số 1, 2, 3 thuộc Kinh Phật Tự Thuyết, Tiểu Bộ tập I (Ud I. 1,2,3 = [Uda.1.1-3]), để nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Thánh lý Nhân Duyên, ngay khi vừa thành đạo, Đức Thế Tôn đã tự thân giáo hoá bằng ba cách quán khác nữa:

7. Quán thuận ứng 12 CPND.
8. Quán nghịch ứng 12 CPND.
9. Quán thuận ứng - nghịch ứng 12 CPND.

Ngoài ra trong những trường hợp cụ thể, Đức Phật cũng đã chỉ dạy quán 12 CPND với các phương pháp:

10. Quán đôi tương tác.
11. Quán diễn dịch và quy nạp.
12. Quán trực tiếp.

Như vậy, về căn bản, hệ thống pháp Nhân Duyên được quán theo 12 cách khác nhau. Trước khi phân tích sâu hơn 12 cách quán nêu trên, có một số điểm cần phải lưu ý:

1. Trong quá trình giải mã hệ thống Nhân Duyên nói riêng và toàn bộ các pháp đã được Đức Thế Tôn tuyên thuyết trong Kinh tạng Nikaya nói chung, phải luôn căn cứ trên những nguyên lý đã được Đức Phật nêu ra trong Kinh Pháp Môn Căn Bản (TB1,1 = [U.3]).

2. Pháp 12 CPND không nhằm mục đích nêu rõ ai vô minh, ai hành, ai ái… Điều quan trọng và chủ yếu là xác định mối quan hệ NHÂN và DUYÊN của các chi phần. Trong kinh Nikaya, nhiều lần Đức Thế Tôn đã phân định rõ rằng Ngài không đặt vấn đề chủ thể trong lý Nhân Duyên. Do đó các câu hỏi như “Ai cảm xúc? Ai thọ? Ai khát ái? Ai chấp thủ?...” là không phù hợp.

Câu hỏi phù hợp với lý duyên sanh, duyên diệt phải là: do duyên gì xúc sanh, thọ sanh, ái sanh, thủ sanh… già chết sanh tức khổ sanh; hay do duyên gì xúc diệt, thọ diệt, ái diệt, thủ diệt… già chết diệt tức khổ diệt? (Xem Tương Ưng, phẩm Nhân Duyên = [U.51])

Điều này ví như có một tai nạn xảy ra, một người cha nhân từ hiểu biết chỉ ôn tồn nêu rõ cho các con nguyên nhân của sự việc là do: xe không có đèn, không thắng, chạy nhanh lúc trời mưa ban đêm, trên đoạn đường dốc quanh co trơn trợt, đồng thời chỉ rõ cách thoát khỏi hiểm họa. Người cha không nỡ trách mắng các con của mình vì lòng từ bi, vì sự việc đã xảy ra và vì quan trọng hơn là phải hóa giải được tai nạn.

Tuy nhiên, 12 CPND là một hệ thống “thông tin nén” phức tạp với rất nhiều dữ liệu đa dạng, việc giải mã hệ thống này hoàn toàn không đơn giản. Vì vậy, trong một số trường hợp, khi lý giải bắt buộc phải dùng những ví dụ chúng sanh này hoặc chúng sanh khác cho dễ hiểu hơn, đây là điều bất khả kháng.

3. Các trích dẫn trong bài viết này đều dựa theo bộ Đại Tạng Kinh Nguyên Thuỷ Nikaya do HT Thích Minh Châu dịch Việt từ nguyên bản chữ Pali, với các số trang của ấn bản 1992 – 2000. Các ký hiệu trong ngoặc [...] là các trích dẫn tương đương theo hệ thống Chín Tạng Thánh Kinh.

Nhằm thuận lợi cho việc nhận thức Thánh lý Nhân Duyên, các cách quán lần lượt được giới thiệu theo trình tự thích hợp, bắt đầu bằng cách quán trên các ngoại pháp.


II. Quán Pháp 12 CPND Trên Các Ngoại Pháp

Theo cách quán này phải đặt các chi phần của hệ thống 12 CPND trong mối liên hệ với các pháp khác hay các đối tượng khác ngoài hệ thống. Pháp bên ngoài hệ thống hay các đối tượng có liên quan ấy sẽ được nhận ra trong quá trình phân tích lý giải sau đây:

Vô minh là không thấy rõ Chân lý khổ đau của sanh-già-bệnh-chết (Khổ đế), Chân lý về nguyên nhân của khổ đau là do tham dục (Tập đế), Chân lý về trạng thái diệt khổ là đoạn trừ tham dục chứng ngộ Niết-bàn (Diệt đế) và Chân lý về con đường đi đến đoạn diệt khổ đau là Tám Chánh Đạo (Đạo đế). Chính vì không thấy như thật Bốn Chân Lý đó nên bản năng tham ái tăng trưởng và chi phối rất nhiều các hoạt động khác nhau, trong đó có những hành động kết hợp do dục ái (kể cả các hành động tạo tác một chúng sanh trong sinh sản vô tính). Khi có những hành động kết hợp giữa hai chúng sanh, trong thời kỳ cơ thể người mẹ có thể thụ thai hay noãn trứng có thể thụ tinh, đây là cơ sở để hình thành bào thai (điều này cũng có nghĩa các tinh trùng dưới sự chi phối của vô minh tiếp tục vận hành gặp noãn trứng để thực hiện việc thụ tinh tạo tác mầm thai). Cho nên mới nói Vô minh duyên cho Hành.

Chính vì có các “hành” như vậy nên “thức” mới có điều kiện nảy sinh và tồn tại cùng mầm thai. Trong kinh văn, thức này còn được gọi là hương ấm (gandhabba). Như vậy Thức được hình thành do duyên và có tên gọi khác nhau tùy theo nguồn gốc phát sinh. Trong Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Đức Thế Tôn đã dạy rõ: “do duyên mà thức sanh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy” (TB1, 38 = Sb.10)

-- Được gọi là Thai Thức hay Noãn Thức với ý nghĩa đây là một dạng tâm thức sơ khai trong thời kỳ phôi thai.

-- Gọi là Nghiệp Thức với ý nghĩa Thai Thức này được hiện khởi là do có Nghiệp làm nhân và Hành làm duyên cho nó.

-- Gọi là Chủng Tử Thức với ý nghĩa đây là mầm mống đầu tiên để hình thành một chúng sanh.

Tất cả gọi chung là “Thức” và do “Hành” làm duyên để hiện khởi, không có hành thì thức không hiện khởi. Chính vì thế nên nói Hành duyên cho Thức.

Với sự hiện hữu của Thai thức, noãn thai mới có thể phát triển dần thành bào thai trong bụng người mẹ với hai thành phần cơ bản: Danh tâm thức trong quá trình phôi thai và Sắc là thân thể vật chất ban sơ của thai nhi. Phải có thức thì danh-sắc mới có, không có thức thì danh-sắc không thể hình thành. Vì thế nên nói Thức duyên cho Danh-Sắc.

Thai nhi với đầy đủ Danh và Sắc, đến cuối thai kỳ, ra đời một hài nhi và phát triển cùng với sáu căn hay sáu giác quan (gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn - bộ não) để tiếp nhận sáu trần, tức các sự vật hiện tượng bên ngoài (gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Điều này có nghĩa sáu trần nhập vào sáu căn, và vì thế, được gọi tắt là Lục Nhập hay Sáu Xứ. Lục nhập này phải do Danh-Sắc mới có, không có Danh-Sắc không thể có Lục Nhập. Vì thế nên nói Danh-Sắc duyên cho Lục Nhập. 

Cha có lục nhập của cha, mẹ có lục nhập của mẹ, con có lục nhập của con, các anh chị em có lục nhập của anh chị em… Nhờ có các “lục nhập” như vậy nên cha mẹ, con cái và các anh chị em trong một gia đình hằng ngày mới giao tiếp, tiếp xúc, xúc chạm với nhau được. Các sự giao tiếp, tiếp xúc phải y cứ trên lục nhập; không có lục nhập không thể có chạm xúc, tiếp xúc. Vì thế Lục Nhập duyên cho Xúc.

Từ sự tiếp xúc, xúc chạm mới có các cảm thọ. Thật dễ dàng nhận ra những cảm thọ lạc, thọ khổ, thọ không khổ - không lạc trong phạm vi gia đình. Mắt người cha nhìn đứa con đang chập chững bước đi, tai ông nghe tiếng con bập bẹ “Ba! Ba!” khiến lòng ông trào dâng sự hoan hỷ lạc thọ. Người mẹ mang nặng đẻ đau đứa con mình, bà cảm nhận biết bao thọ khổ qua sự xúc chạm trực tiếp với thai nhi. Có nhiều lúc những người trong cùng gia đình tiếp xúc với nhau hằng ngày với nhiều cảm thọ trung tính không khổ - không lạc. Nói chung do tiếp xúc, xúc chạm nên các cảm thọ phát sanh, không có xúc không thể có cảm thọ. Vì thế Xúc duyên Thọ được nêu lên.

Tất cả những cảm thọ này đều dẫn đến sự luyến ái giữa những người thân trong gia đình, thậm chí ngay cho dù có những cảm thọ khổ (người mẹ mang nặng đẻ đau nhưng vẫn yêu con của mình, người cha chịu bao cực nhọc vì con nhưng vẫn thương con, người chị sẵn sàng chịu ướt lạnh nhường áo mưa cho em nhưng vẫn quý em…). Có ba sợi dây ái luyến trong phạm vi gia đình, đó là: dục ái, sắc ái và vô sắc ái (có khi được hiểu là dục ái, hữu ái và phi hữu ái với ý nghĩa các ái này đều dẫn đến hữu và sanh)

-- Dục ái là sự luyến ái liên hệ đến dục. Trong phạm vi gia đình đó là sự ái luyến giữa vợ và chồng, chồng và vợ.

-- Sắc ái là sự yêu thương giữa những người thân còn sống có hình tướng, hình sắc như giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà và các cháu, giữa các anh chị em…

-- Vô sắc ái là sự nhớ thương của những người còn sống với những người thân yêu đã khuất.

Ba sợi dây luyến ái vô hình này trói cột chặt con người vào với nhau và vào với bất an, hệ lụy; vì thế chúng còn được gọi chung là “ái kiết sử”. Dù dục ái, sắc ái hay vô sắc ái, tất cả cũng đều phát sinh từ những cảm thọ. Do đó nên nói Thọ duyên Ái.

Vì có luyến ái mới có chấp thủ nhau, nắm giữ nhau. Chính vì vợ luyến ái chồng, chồng luyến ái vợ nên vợ muốn nắm giữ chồng, chồng muốn nắm giữ vợ. Cha mẹ, con cái, anh chị em có yêu thương, luyến ái nhau nên mới muốn thủ giữ nhau... Có yêu thương, luyến ái là có chấp thủ; không có yêu thương, luyến ái thì không có chấp thủ. Cho nên nói Ái duyên Thủ là như vậy.

Vì có chấp thủ, nắm giữ nhau nên mới nhau (hữu). Con muốn nắm giữ mẹ nên con phải có mẹ, vợ chấp thủ chồng nên vợ phải có chồng… Không có chấp thủ, không nắm giữ nhau thì không thể có nhau. Do vậy Thủ duyên Hữu được nêu lên.

Chính vì sự hiện hữu của những người thân chung sống, nương tựa nhau trong cùng một mái gia đình như vậy nên mới hình thành một Sanh y (Sanh là sanh sống, y là nương tựa với nhau). Không có sự hiện hữu của những người thân trong gia đình không thể có sanh y. Vì vậy Hữu duyên Sanh y.

Từ ngàn xưa cho đến nay, ở bất kỳ nơi nào trên trái đất này và trong bất kỳ thời đại nào cũng vậy, không có một gia đình nào lại không có sự khổ đau của già và chết (tức cũng phải sầu, bi, khổ, ưu, não). Có sanh y là có già - chết, đây là một chân lý hiển nhiên không thể phủ nhận. Vì thế nên nói Sanh y duyên Già, Chết, sầu, bi, khổ, ưu, não hay toàn bộ khối khổ uẩn sanh khởi cũng vì thế.

Như vậy quán pháp 12 CPND trên các ngoại pháp chính là quán các chi phần nhân duyên trong mối quan hệ với các pháp khác bên ngoài hệ thống. Nói theo ngôn ngữ Bốn Niệm Xứ tức là phải quán Pháp 12 CPND trên các ngoại pháp “gia đình”, pháp “cha mẹ”, pháp “chồng vợ”, pháp “con cái”, pháp “anh chị em”, pháp “người thân đã khuất” để nhận thức rõ khổ như thật và nguyên nhân khổ đau như thật từ đó biết cách đoạn trừ khổ đau cho mình và cho người thân.

Cũng cần nói rõ thêm, đương thời Đức Phật, đã có một số ngoại đạo xuyên tạc đạo Phật, pháp Phật khi họ vu cáo rằng sa-môn Gotama chủ trương diệt dục tức là huỷ diệt mầm sống, diệt tận cuộc sống. Đức Thế Tôn đã chỉ rõ sự ngụy trá này bằng sự phân định rõ rằng Ngài không chủ trương huỷ diệt mầm sống, tiêu diệt cuộc sống mà chỉ chủ trương diệt tham dục với ý nghĩa nó là nguyên nhân gây ra đau khổ. Để minh chứng cho điều này, có thể nêu hai trường hợp tách biệt mà người trí có thể hiểu được.

_ Đạo Phật không chủ trương tiêu diệt sắc đẹp hay tiêu huỷ tiền bạc vì đó là những tồn tại khách quan. Đạo Phật chỉ chủ trương đoạn diệt lòng đam mê sắc đẹp, tâm tham đắm tiền bạc khi những ham mê này gây ra đau khổ cho mình và cho người khác; khiến ác pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm; có hại cho mình, cho người và cho xã hội.

_ Bên cạnh đó, cũng không có gì khó hiểu khi trong 37 Phẩm Trợ Đạo của đạo Phật, pháp Bốn Như Ý Túc lại có Dục như ý túc tức là lòng khát vọng giúp mình và mọi người đi tới giải thoát cao thượng, là sự khát khao mong cầu mình và các chúng sanh khác vượt thắng khổ đau của sanh, già, bệnh, chết.

Rõ ràng đây là hai khía cạnh hoàn toàn khác nhau, không thể lẫn lộn.

Bên cạnh đó, ở bất kỳ đâu, trong bất cứ thời đại nào cũng vậy, những khổ đau do tham dục không thể nói hết được. Không làm chủ bản năng tham dục chính là nguyên nhân của biết bao thảm kịch hại mình, hại người và rối loạn xã hội. Thật vậy, từ những tệ nạn hiếp dâm, ấu dâm, thú dâm, thủ dâm, mại dâm cho đến vấn nạn ngoại tình, loạn luân, ghen tương, thù hận v..v... xét cho cùng, tất cả cũng chỉ do “tham dục” mà ra.

Do vậy, thật dễ hiểu khi nói rằng dục là nguyên nhân gây ra đau khổ; dục vui ít, khổ nhiều, nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Và vì thế ly tham ái là ly khổ, làm chủ bản năng tham ái là làm chủ khổ, đoạn trừ tham ái là đoạn trừ khổ.

Muốn đoạn diệt khổ đau, trước hết, cần phân biệt khổ đau theo hai dạng chung nhất: thường hằng khổ đau thực tại khổ đau.

Được gọi là “thường hằng khổ đau” là những khổ đau xảy ra cho tất cả mọi người, xảy ra trong bất kỳ thời đại nào và xảy ra ở bất cứ nơi đâu, đó chính là bốn nỗi khổ đau của Sanh, Già, Bệnh (thân và tâm), Chết.

Bên cạnh đó, còn có những “thực tại khổ đau” là những khổ đau có thể xảy ra nhiều cho người này nhưng ít (hoặc không có) nơi người khác, có thể mạnh lúc này nhưng yếu lúc khác, có thể xảy ra nhiều nơi này nhưng ít ở nơi khác, đó là những khổ đau của Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não.

Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận mối quan hệ mật thiết giữa thường hằng khổ đau và thực tại khổ đau. Trong bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ nơi đâu và đối với bất kỳ ai cũng vậy, khi gặp phải những thực tế này đều phải thừa nhận chúng là những khổ đau như thực. Vì thế chúng được gọi là Chân lý khổ đau hay Khổ đế.

Như vậy trong một gia đình, lúc này lúc khác, dù ít dù nhiều, cũng có những thực tại khổ đau của sầu-bi-khổ-ưu-não, nhưng tất cả mọi sanh y đều phải chấp nhận bi cảnh tất yếu không thể khác được với những khổ đau thuộc về chân lý của già và chết. Dù lạc quan hay bi quan, dù hữu thần hay vô thần, dù duy tâm hay duy vật cũng đều phải thừa nhận thực tế khách quan này.

Người học Phật khi quán pháp 12 CPND không nhìn cuộc sống qua lăng kính mầu hồng, cũng không nhìn đời qua lăng kính mầu đen, mà nhìn đời qua lăng kính trong suốt với những gì đã xảy đến cho một sanh y như thực có, không thêm, không bớt.

Hơn thế nữa, còn phải biết nguyên nhân và cách diệt tận khổ đau để cứu mình và cứu những người thân của mình. Thái độ và cách nhìn như vậy chắc chắn không phải là tiêu cực, yếm thế..


2.1 Nhận thức nơi tu sĩ

Tiến trình của 12 CPND đã cho thấy từng mắt xích dẫn đến kết cuộc của khổ đau. Điều này có thể hình dung cuộc sống sanh y giống như một chuyến du hành trên con tầu định mệnh. Ta như một hành khách bước lên toa tầu, trong đó đã có những hành khách “Cha” và “Mẹ”, chạy được một lúc lại có hành khách “Vợ” hoặc “Chồng” bước lên, rồi một lúc nữa lần lượt các hành khách “Con trai”, “Con gái” bước lên.

Để rồi mọi việc không như ý chúng ta mong muốn. Vì chắc chắn phải tới lúc bắt buộc từng hành khách phải chia tay nhau bước xuống toa tầu và biến mất vào cõi vô định, để lại biết bao đau buồn cho những người ở lại. Sự việc phải như thế không thể khác được. Tất nhiên, bản thân Ta cũng phải chịu chung một số phận như vậy.

Nhưng, không phải chỉ có bấy nhiêu, đối với vị Tỳ-kheo đệ tử Phật còn phải ý thức rõ thêm: “Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo, tức là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải nước trong bốn biển lớn.

Trong một thời gian dài, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng mẹ chết... các Ông chịu đựng con chết... các Ông chịu đựng con gái chết... các Ông chịu đựng tai họa về bà con... các Ông chịu đựng tai họa về tiền của... Trong một thời gian dài, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng tai họa của bệnh tật. Cái này là nhiều hơn, là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì mình không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải chịu đựng tai họa của bệnh tật chớ không phải nước trong bốn biển.

Vì sao? Vô thỉ, này các Tỷ-kheo, là sự luân hồi này. Ðiểm bắt đầu không thể nêu rõ đối với chúng sanh bị vô minh che đậy, bị khát ái trói buộc. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành”  (Trích bài kinh Nước Mắt, Tương Ưng tập 2, bài kinh số 179 = (TƯ2, 179) = [I.12.3])

Vị Tỳ-kheo quán xét kiếp nhân sinh hiện tại, đã thấy như thật muôn vẻ của khổ đau do quy luật vô thường của cuộc sống cũng vừa đủ để nhàm chán, từ bỏ, giải thoát những buộc ràng trước mắt và lâu dài. Trong thời Phật, có một Ác ma biến thành một vị Bà-la-môn nói với các Tỳ-kheo trẻ:

“-- Chư Ðại đức xuất gia quá trẻ, niên thiếu, tóc còn đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong thời trẻ thơ của tuổi đời, không thọ hưởng các dục. Chư Ðại đức hãy thọ hưởng các ái dục của con người, chớ có bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối” (TƯ1,117 = [Sd.16.21]).

Tuy còn trẻ tuổi nhưng các Tỳ-kheo đã ý thức rõ bản chất vô thường của ái dục và hệ lụy của cuộc đời nên đã trả lời: “Này Bà-la-môn, chúng tôi không bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối. Và này Bà-la-môn, chúng tôi bỏ những gì bị thời gian chi phối và chạy theo hiện tại. Này Bà-la-môn, Thế Tôn đã nói các dục bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, tai họa ở đấy càng nhiều hơn. Còn pháp này thuộc về hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, và chỉ người trí mới tự mình giác hiểu” (Sđd)

Các Tỳ-kheo về thưa lại với Đức Phật và được Ngài dạy thêm:

“Ai thấy rõ khổ đau,
Và nguyên nhân đau khổ,
Làm sao người như vậy,
Có khuynh hướng các dục?
Sau khi biết sanh y
Là ràng buộc ở đời,
Người biết vậy nên học,
Giải trừ mọi buộc ràng” (Sđd).

Một tu sĩ trẻ xuất gia khi chưa lập gia đình hãy quán sát kỹ và nhận thức thấu đáo hệ thống ngoại pháp 12 CPND để truy nguyên nguồn gốc và hệ quả của khổ đau, nhờ vậy sẽ tìm được câu trả lời dứt khoát cho lý tưởng ra đi tầm cầu giải thoát: trở về hoàn tục để rồi lại thực hiện chuyến du hành vui ít hệ lụy nhiều, hay quyết tâm tu hành để thoát khỏi vòng vây của khổ não?

Và một khi đã từ bỏ sanh y ra đi vì lý tưởng giải thoát khổ đau, trước sau vị Tỳ-kheo phải cố gắng thực hành trọn vẹn lý tưởng ấy, phải làm viên mãn mục đích chân chính của người xuất gia, ngay cho dù có phải chấp nhận khất thực hèn hạ để nuôi thân.

Vị Tỳ-kheo phải kiên cường chiến đấu chống lại tham-sân-si nhằm đạt tới giải thoát cuối cùng, bởi nếu không, người tu sĩ sẽ phải sống cuộc đời không ra đời, đạo không ra đạo, lúc ấy họ chẳng khác nào khúc cây cháy hai đầu ở giữa lại dính phân như lời dạy sau đây của Đức Thế Tôn:

“-- Này các Tỷ-kheo, đây là nghề sinh sống hèn hạ nhất, tức là nghề khất thực. Ðây là một lời nguyền rủa trong đời, này các Tỷ-kheo, khi nói: "Ông, kẻ khất thực với bát trên bàn tay, Ông đi chỗ này, chỗ kia và đấy là nghề sinh sống".

Này các Tỷ-kheo, điều mà các thiện gia nam tử chấp nhận là những vị sống vì lý tưởng mục đích, duyên với lý tưởng mục đích; không phải vì ma cưỡng ép, không phải vì trộm cướp cưỡng ép, không phải vì thiếu nợ, không phải vì sợ hãi, không phải vì không có nguồn sinh sống, mà với ý nghĩ:

"Ta bị chìm đắm trong sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; bị chìm đắm trong đau khổ, bị đoanh vây bởi đau khổ. Rất có thể, sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này được tìm ra". Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là thiện gia nam tử xuất gia.

Vị ấy có tham dục đối với các dục vọng, tham ái cuồng nhiệt, tâm tư sân hận, tư niệm ô nhiễm, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự. Ví như, này các Tỷ-kheo, một que củi từ chỗ hỏa táng, cả hai đầu đều cháy, ở giữa lại dính phân, không được dùng làm củi trong làng, không được dùng làm củi trong rừng.

Dùng ví dụ ấy, Ta tả cho các Ông con người ấy, đã mất cả nhà và tài sản, lại không làm viên mãn mục đích của Sa-môn hạnh” (TƯ3, 91= [Ve.7.80.18]).

Tiến trình của 12 CPND trên ngoại pháp cũng ví như Ta và những người thân yêu lênh đênh trên cùng một con thuyền giữa biển khơi. Chắc chắn sẽ có lúc chúng ta phải đối diện với biết bao đau thương khi một vị đồng hành “Cha” hoặc “Mẹ” hoặc cả hai bắt buộc bị rớt xuống biển mất hút. Rồi lại tới lượt các đồng hành “Vợ” hoặc “Chồng” hoặc “Con” hoặc chính Ta cũng phải nhận lấy quy luật nghiệt ngã ấy. Một người có trí tuệ, có trách nhiệm với bản thân mình và những người thân sẽ phải tự hỏi: “Chẳng lẽ Ta và những người thân yêu phải bó tay chấp nhận kết cuộc đau thương như vậy sao?”

Đã có một người không cam nhận tấn bi kịch xảy đến cho mình, cho gia đình mình và cho mọi người nên đã lao mình xuống “biển khơi” với tất cả sự cố gắng, nỗ lực và trí tuệ để tự mình tìm cho bằng được bến bờ giải thoát.

“Này các Tỷ-kheo, có hai loại tầm cầu này: Thánh cầu và phi Thánh cầu.

Chư Tỷ-kheo, và thế nào là phi Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm.

...Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh... tìm cầu cái không bệnh...; tự mình bị chết... tìm cầu cái bất tử...; tự mình bị sầu... tìm cầu cái không sầu...; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, gọi là Thánh cầu.

Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu"... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... (như trên)... tự mình bi ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... tìm cầu cái không già...; tự mình bị bệnh... tìm cầu cái không bệnh...; tự mình bị chết... tìm cầu cái bất tử...; tự mình bị sầu... tìm cầu cái không sầu...; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn.

Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ” (Kinh Thánh Cầu, TB1, 26 = [Sb.6])

-- “Ở đây, này Aggivessana, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Ðời sống gia đình bị gò bó, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia như sống giữa hư không. Thật rất khó sống tại gia đình mà có thể sống hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh đời sống phạm hạnh thuần tịnh. Hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình"  (Đại kinh Saccaka, TB1, 36 = [So.7.9])

Vị có chí hướng cao cả ấy cũng vốn là một thái tử nhưng đã dám từ chối cả ngôi vua, dám từ bỏ cả cung vàng điện ngọc, quyết tâm ra đi tìm chân lý tối thắng an tịnh đạo lộ. Sau sáu năm trời khổ hạnh, vượt qua biết bao những khó khăn trở ngại có lúc đến phải dở sống dở chết, cuối cùng vị ấy đã tìm ra mảnh đất an toàn vĩnh cửu để cứu mình, và hơn thế nữa, đã quay lại để cứu cho những người thân yêu và nhiều người khác nữa.

Vị ân nhân vô thượng ấy không ai khác hơn chính là Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Rõ ràng sự ra đi của Đức Phật đã vĩ đại nhưng sự trở về của Ngài để cứu độ cho gia đình, cho hoàng tộc, cho mọi người còn vĩ đại hơn gấp nhiều lần.

-- Đức Phật đã thực hiện trọn vẹn nhất trách nhiệm đối với bản thân khi đã tự cứu mình ra khỏi khổ đau ngay trong hiện tại và chấm dứt vĩnh viễn sanh tử luân hồi.

-- Đức Phật đã là người con chí hiếu nhất khi đã giúp vua cha Tịnh Phạn, chứng Thánh quả Bất Lai, được hóa sanh tại đấy nhập Niết-bàn không còn khổ đau trong sanh tử.

-- Đức Phật đã là người cha thâm ân nhất khi đã cứu con mình là La Hầu La, chứng Thánh quả A-la-hán, được an lạc ngay trong hiện tại và giải thoát vĩnh hằng.

-- Đức Phật đã là người chồng ân nghĩa nhất khi đã cứu vợ mình là Da Du Đà La, trở thành Thánh ni A-la-hán, nhập Niết Bàn, vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau muôn kiếp.

-- Đức Phật là vị ân sư vĩ đại nhất khi đã chỉ dạy con đường hạnh phúc, an lạc, giải thoát khổ đau cho tất cả chúng sanh.

Và tất nhiên, Đức Phật sẽ không thể là Đức Phật vô thượng, vô song, nếu Ngài không dũng trí đoạn dứt sợi dây luyến ái vi tế trói chặt Ngài và người thân yêu vào với đau khổ để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng nhất, cao đẹp nhất: cứu mình, cứu người thoát khỏi khổ đau của sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

Người tu sĩ đạo Phật phải noi theo gương hạnh của Đấng Từ Phụ, phải thấy rõ ý nghĩa của lý tưởng xuất gia, đó là thực hiện cao quý nhất trách nhiệm đối với bản thân mình; hơn thế nữa, sau khi đã tự cứu lấy mình, vị Tỳ-kheo Thanh văn còn phải biết vâng lời Phật, nỗ lực cứu giúp cho mọi người, trong đó có những người thân yêu của mình.

-- “Này các Tỷ-kheo, Ta đã được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, các Ông cũng được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới và Nhân giới.

Này các Tỷ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn.

Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ đi đến Uruvelà, thị trấn Senà để thuyết pháp….”  (TƯ1, 105 = [Sd.16.4])

Vị Tỳ-kheo Thanh văn đệ tử Phật nhận thức rõ khổ đau như thực để vượt qua và chiến thắng khổ đau: đó không phải là bi quan, yếm thế; ngược lại đó là hành động khách quan cải thế tích cực.

Vị Tỳ-kheo Thanh văn đệ tử Phật không chấp nhận bị lũ Ma quân tham-sân-si trói cột vào khổ đau của sanh-già-bệnh-chết, quyết tâm ra đi tầm cầu giải thoát cho mình, cho dù phải gìn giữ giới hạnh thanh tịnh, có lúc phải độc trú biệt cư cô độc, đối diện với chính mình để chiến thắng chính mình: đó không phải là sự ích kỷ cá nhân, trái lại là tinh thần từ bi trí dũng vẹn toàn.

Vị Tỳ-kheo Thanh văn đệ tử Phật khi đã tự cứu được mình còn phải tiếp tục nỗ lực cứu giúp cho những người khác được giải thoát, đó không phải là sự hèn nhát trốn tránh cuộc đời; trái lại đó là tinh thần tự độ, độ tha cao cả.

Để giải thoát khỏi khổ đau trong sanh tử luân hồi, để chiến thắng chính mình, đánh bại ba lũ giặc Ma quân tham-sân-si trong nội tâm, đạt an lạc ngay trong hiện tại; người đệ tử Phật phải có quyết tâm dũng mãnh như Tỳ-kheo Abhibhu:

"Hãy đứng dậy, lên đường,
Hãy dấn thân Phật giáo,
Hãy đánh bại Ma quân,
Như voi phá chòi lá.
Ai trong pháp luật này,
An trú không phóng dật,
Ðoạn tận vòng sống chết,
Sẽ chấm dứt khổ đau”
(TƯ1, 155 = [Sd.9.14])

Chỉ với những lời trên cũng cho thấy vị Tỳ-kheo Thanh Văn không phải là những người yếm thế tiêu cực, trốn tránh cuộc đời để đi tìm sự an nhàn ích kỷ như đã từng bị ngộ nhận. Trái lại, vị Tỳ-kheo Thanh Văn đệ tử Phật khi quán xét Thánh lý Nhân Duyên phải luôn ghi nhớ một nguyên tắc quan trọng nhất, tích cực nhất, cao đẹp nhất theo tinh thần kinh điển nguyên thủy Nikaya, đó là: nhận thức khổ, nguyên nhân của khổ để diệt khổ cho mình và cả cho người.

Tuy nhiên, một tu sĩ sẽ khó tu tập giải thoát khi không thể an trú tâm mình, nếu chỉ “ly gia” về mặt hình tướng nhưng chưa “cắt ái” từ trong nội tâm, vì đúng như Đức Phật đã dạy:

"Sắt, cây, gai trói buộc
Người trí xem chưa bền.
Tham châu báu, trang sức
Tham vọng vợ và con.
Người có trí nói rằng:
"Trói buộc này thật bền.
Rì kéo xuống, lún xuống,
Nhưng thật sự khó thoát.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ dục lạc, không màng”
(PC 345 - 346)

Tình cảm yêu thương trong gia đình là một vấn đề thiêng liêng, rất tế nhị và nhạy cảm; giải quyết sợi dây ái luyến phức tạp này để tĩnh tâm trong tu tập không phải là việc đơn giản. Không có một hệ thống lý luận trí tuệ sắc bén thì không thể chặt đứt được sự ràng buộc vi tế này.

Quán sát sâu sắc hệ thống Thánh lý 12 CPND sẽ giúp người tu sĩ khi bị những sợi dây vô hình níu kéo sẽ có thêm sức mạnh của trí tuệ để an trú tâm hơn, tiến tu hơn, nhằm thực hiện trọn vẹn lý tưởng cứu mình, cứu người.

Trong ý nghĩa trên, một Tỳ-kheo không những phải quán sát sâu sắc Thánh lý Nhân Duyên mà còn phải thiện xảo về giáo pháp này, vì đây là một trong những phẩm chất của một người đệ tử Phật có trí tuệ và biết suy tư tìm hiểu. Chính Đức Thế Tôn đã dạy cho ngài Ananda:

“-- Cho đến khi, này Ananda, Tỷ-kheo thiện xảo về giới, thiện xảo về xứ, thiện xảo về duyên khởi và thiện xảo về xứ phi xứ, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói: ‘Tỷ-kheo là người hiền trí, biết suy tư tìm hiểu’” (Kinh Đa Giới, số 115, TB3 = [U.34.4]).

Tư duy kỹ lưỡng các cách quán 12 CPND khác sẽ giúp vị Tỳ-kheo hoàn thiện hơn khả năng thiện xảo về Duyên khởi.
 

2.2 Nhận thức nơi cư sĩ

Đối với người cư sĩ, do hoàn cảnh riêng của mình, chưa thể cắt ái ly gia để thực hiện lý tưởng như của người tu sĩ, nhưng để cứu mình và gia đình tránh khỏi thực tại khổ đau, cũng cần phải quán sát 12 CPND với một nhận thức thích hợp.

Rõ ràng người cư sĩ khi còn sống trong gia đình không thể nói: “Vì ái là nguyên nhân gây ra đau khổ nên tôi không còn muốn ái cha, ái mẹ, ái vợ (chồng), ái con cái nữa”. Hoặc cũng không thể nói: “Vì sanh y là nguyên nhân gây đau khổ nên tôi không cần gia đình chi cả”… Vì sao người cư sĩ không thể nói như vậy? Vì một kẻ vô tâm tuy sống giữa gia đình cũng có thể nói như thế.

Vậy người cư sĩ phải nghĩ, nói và hành động như thế nào?

Người cư sĩ còn trong gia đình phải dùng một “ái” khác thay thế cho ái kiết sử. Ái kiết sử là sợi dây buộc ràng dẫn tới đau khổ vì nó bắt nguồn từ vô minh. Còn lòng “từ ái” đem lại hạnh phúc an vui cho mình và gia đình phải là tình cảm yêu thương phát xuất từ trí tuệ.

Tâm “từ ái” bắt nguồn từ trí tuệ có thể giúp người cư sĩ và gia đình mình tránh khỏi thực tại khổ đau của sầu, bi, khổ, ưu, não là gì? Đó chính là lòng Từ Bi biến mãn của người Phật tử.

Từ Bi Biến Mãn nơi người cư sĩ

Muốn hiểu rõ lòng Từ Bi giúp diệt trừ khổ đau như thế nào phải hiểu đúng hai chữ Từ Bi.

Từ là lòng thương, tình thương. Trong kinh Nikaya, Đức Phật dạy người Phật tử phải tu tập Từ tâm biến mãn. Biến mãn là không còn ranh giới giữa ta và người. Điều này có nghĩa thương bản thân mình như thế nào thì phải thương cha, thương mẹ, thương vợ (chồng), con cái và các chúng sanh khác như vậy. Ngược lại thương những người thân yêu và các chúng sanh như thế nào thì cũng phải biết thương yêu chính mình. Vì biết thương mình nên không làm hại mình, không gây khổ đau cho mình; vì biết thương người khác nên không thể gây hại, gây đau khổ cho họ.

Bi là thấu rõ, thấu cảm sự đau khổ. Đức Phật dạy chúng ta phải biết tu tập Bi tâm biến mãn. Điều này có nghĩa ta phải thấu rõ nỗi đau khổ của bản thân mình và đồng thời phải thấu cảm với nỗi đau khổ của người khác, của cha mẹ, của anh em, của mọi người. Vì có thấu rõ nỗi khổ của mình nên mới nỗ lực hướng đến làm lợi ích cho mình; đồng thời vì có thấu cảm với nỗi khổ đau của người nên nỗ lực hướng đến làm lợi ích cho người, cho cả hai phía.

Như vậy muốn thực hiện Từ Bi biến mãn phải có trí tuệ mới làm được, không có trí tuệ không thể thực hiện được Từ Bi biến mãn. Do đó Từ Bi là trí tuệ, trí tuệ là Từ Bi. Trí tuệ nằm sẵn trong Từ Bi, ngược lại vô minh nằm sẵn trong ái kiết sử. “Ở đây, này Tỷ-kheo, Bậc Hiền trí, Ðại tuệ, không có nghĩ tự làm hại mình, không có nghĩ tự làm hại người, không có nghĩ tự mình làm hại cả hai, có suy nghĩ điều gì thời suy nghĩ lợi mình, lợi người, lợi cả hai, lợi toàn thể thế giới. Như vậy, này Tỷ-kheo, là Bậc Hiền trí, Ðại tuệ” (TC IV:186, tr.159 = [I.4.186]).

Tu tập Từ Bi biến mãn cũng có nghĩa là thân không làm ác, miệng không nói ác và ý nghĩ không nghĩ ác; hơn thế nữa thân phải biết làm thiện, miệng phải biết nói thiện và ý nghĩ phải biết nghĩ thiện.

Thật dễ hiểu khi một người cư sĩ có lòng từ bi với mình và từ bi với người thân của mình cũng là người biết giữ nghiêm năm giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không dùng rượu và các chất gây nghiện.

Thực vậy, một người biết từ bi với mình không thể làm hại mình, không tự giết mình; người biết từ bi với cha mẹ, vợ con sẽ không thể sát sanh hại mạng người thân.

Người biết từ bi biến mãn không thể trộm cắp tài sản của gia đình mình cũng như của xã hội.

Người biết từ bi biến mãn với vợ con mình và gia đình người khác không thể tà hạnh trong các dục để phá hoại hạnh phúc gia đình của mình và của người khác.

Người biết từ bi biến mãn không thể nói láo để làm hại mình, hại người.

Người biết từ bi biến mãn sẽ không uống rượu hoặc nghiện ngập để làm hại mình và làm khổ những người thân.

Rõ ràng người có lòng từ bi cũng là người biết thực hành giới luật của Phật, người giữ gìn giới luật của Phật chính là người đã từ bi với mình và từ bi với người khác. Có thể khẳng định dứt khoát: từ bi là giới luật, giới luật là từ bi. Cho nên, trong kinh Tăng Chi tập 4, chương 9, Phẩm Tiếng Rống Sư Tử, có bài kinh tựa đề là “Từ Bi” nhưng nội dung chỉ nói đến tu tập giới luật cùng với tâm từ là vì vậy.

Từ những nhận thức trên giúp đi đến một kết luận quan trọng khác: Phạm hạnh là trí tuệ, trí tuệ là Phạm hạnh. Chính Đức Thế Tôn đã xác chứng cho Bà-la-môn Sonadanda như sau:

“- Thật như vậy, này Bà-la-môn. Này Bà-la-môn, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời. Nhưng này Bà-la-môn, thế nào là giới hạnh, thế nào là trí tuệ?...” (Kinh Sonadanda, số 4, TrB1 = [So.42.22])

Những ai muốn biết rõ thế nào là giới hạnh, thế nào là trí tuệ theo quan niệm của Đạo Phật, hãy đọc kỹ bài kinh này. Còn ở đây có thể đi đến kết luận quan trọng: Từ bi, Trí tuệ và Phạm hạnh là ba mặt của một khối tam giác đồng nhất của một nền đạo đức nhân bản thực sự.

Người cư sĩ biết thay ái kiết sử của vô minh bằng lòng từ bi của trí tuệ, thực hiện cụ thể qua nếp sống giữ gìn năm giới, sẽ đoạn trừ dần thực tại khổ đau của sầu, bi, khổ, ưu, não; đem lại hạnh phúc cho mình và cho gia đình mình.

Thật vậy, trong một gia đình, nếu người cha biết từ bi với mình, với người thân và ông giữ nghiêm năm giới; người mẹ cũng biết từ bi với mình, với người thân và bà cũng giữ nghiêm năm giới; các người con cũng biết từ bi với mình, với người thân và giữ nghiêm năm giới thì đây chính là gia đình của hạnh phúc, an vui, thánh thiện: một gia đình của chư Thiên.

Trong kinh Nikaya, Đức Phật luôn nhắc nhở mỗi người cần phải tu tập trải rộng lòng từ bi biến mãn đều khắp bốn phương, trên dưới đồng đẳng không biên giới: “biến mãn một phương với tâm câu hữu với Từ… với Bi…, cũng vậy, phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Từ…với Bi, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”.

Điều này có nghĩa mỗi người Phật tử cần phát triển tâm từ bi từ trong gia đình đến tất cả các đối tượng khác ngoài gia đình mình. Tu tập từ bi biến mãn là tình thương và sự thấu cảm không còn ranh giới, không những giữa ta với gia đình mà còn với họ hàng thân quyến, với hàng xóm láng giềng, với bạn bè đồng nghiệp, với mọi loài chúng sanh. 

Trong một thôn làng, nếu mỗi người đều biết từ bi với mình, với mọi người và giữ nghiêm năm giới, hẳn nhiên đó là xóm làng chư Thiên. Cũng vậy, trong một thành phố, một đất nước và cả thế giới này, nếu mọi người dân tại đấy có lòng từ bi biến mãn và biết giữ gìn năm giới thì đó là thành phố chư Thiên, đất nước chư Thiên và thế giới chư Thiên.

Lòng từ bi biến mãn không những là chìa khoá giúp giải trừ những thực tại khổ đau cho mỗi người, cho mỗi gia đình mà còn cho toàn thế giới.

Ngược lại, một gia đình cho dù giầu có đến đâu chăng nữa, nhưng còn nghèo nàn về đức hạnh từ bi thì sự khổ đau vẫn còn ngự trị. Một thành phố, một đất nước cũng vậy: nền kinh tế và nếp sống đạo đức cần phải được phát triển song hành như hai chân của một cơ thể; nếu không, cuộc sống xã hội sẽ chênh vênh khập khiễng.

Ở đâu những chỉ số phát triển về kinh tế không đi kèm với những chỉ số về đạo đức thể hiện cụ thể qua năm giới, thì ở đó những bi kịch vẫn còn tồn tại và phát triển không ngừng. Những tin tức hàng ngày nhan nhản trên các phương tiện thông tin đã chứng minh cho nhận định nêu trên.

Trong một hồ nước có những bông sen vượt lên khỏi mặt nước, có những bông sen vươn lên nửa chừng, nhưng cũng có những bông sen còn chìm ngập hoàn toàn dưới nước. Mỗi bông sen tùy theo cách thế của mình được hưởng ánh sáng mặt trời khác nhau.

Cũng vậy, mỗi người tùy theo hành nghiệp của mình sẽ hưởng quả báo an vui hay đau khổ cho chính mình. Những người trí đã giữ nghiêm Phạm hạnh và nhờ thế biết đem lại an lạc hạnh phúc cho mình và cho gia đình, những người này sẽ không bao giờ thắc mắc tự hỏi vì sao đạo Phật là đạo diệt khổ từ hơn hai ngàn năm trăm năm qua, thế nhưng đến nay thế gian vẫn còn là bể khổ.

Đối với người cư sĩ, khi thấy rõ được tính thiết thực của lòng Từ Bi biến mãn tức giúp mình, giúp người đoạn tận thực tại khổ đau của sầu, bi, khổ, ưu, não; từ đó sẽ tăng trưởng lòng tin nơi lý tưởng Từ Bi tối thượng của vị Tỳ-kheo có thể giúp mình, giúp người đoạn tận những khổ đau thuộc về chân lý thường hằng.

Càng hiểu và thực hành đúng Phật Pháp, càng giúp đoạn trừ dần khổ đau. Càng thực chứng được tánh hiệu quả của một giáo pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện; càng có lòng chánh tín nơi nơi Đức Thế Tôn - "Ðây là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn" (kinh Nikaya).

Cùng phát triển được lòng tịnh tín nơi Pháp bảo: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu" (Sđd).

Và lòng tịnh tín nơi Tăng bảo: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời" (Sđd).

Lộ trình khởi đi từ lòng chánh tín theo con đường Tám Chánh Đạo nhằm đoạn diệt khổ đau, giải thoát hoàn toàn, cũng là tiến trình tiếp theo của quán 12 CPND theo ngoại pháp đã được Đức Phật vạch ra trong bài kinh Duyên:

“Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên khổ; khổ duyên tín; tín duyên hân hoan; hân hoan duyên hỷ; hỷ duyên khinh an; khinh an duyên lạc; lạc duyên định; định duyên tri kiến như chân; tri kiến như chân duyên yếm ly; yếm ly duyên ly tham; ly tham duyên giải thoát; giải thoát duyên trí về đoạn diệt” (TƯ2, 29, tr.61-62 = [U.51.23.26])

Tóm lại, quán Pháp 12 CPND trên ngoại pháp sanh y và các pháp người thân là để thấy rõ khổ đau như thật, từ đó giúp người cư sĩ và tu sĩ thực hiện giải thoát khổ đau cho mình và cho người theo giáo pháp Đức Thế Tôn đã chỉ dạy.

Giải mã hệ thống thông tin nén 12 CPND với những cách quán sau sẽ giúp người Phật tử hiểu rõ hơn Phật Pháp với ý nghĩa trọn vẹn nêu trên.


III. Quán Pháp 12 CPND Trên Các Nội Pháp

Đây là cách quán xét, suy tư, phân tích 12 CPND với bản thân các chi phần trong hệ thống, chứ không quán pháp Nhân Duyên trong mối liên hệ với các pháp khác như trong cách quán của ngoại pháp. Nói nôm na đây là vấn đề “ta với ta”.

Bản thân ta có ý thức rõ và vượt qua được khổ đau mới có thể giúp người khác giải trừ khổ đau. Cách quán 12 CPND trên nội pháp nhằm giúp mỗi người lý giải được vấn đề này.

Theo cách quán trên nội pháp, các chi phần của hệ thống 12 CPND cũng mang một ý nghĩa khác. Trong nhiều bài kinh như “Đại Duyên” (Trường Bộ 1 = [Sb.31]), kinh “Phân Biệt” (TƯ2, 2 = [U.51.2]), Đức Phật đã định nghĩa nội dung từng chi phần của 12 CPND một cách rất cụ thể. Căn cứ vào các định nghĩa này có thể quán pháp Nhân Duyên trên các nội pháp như sau:

Do Vô Minh, có Hành sinh
Vô minh là không rõ biết Khổ đế, không rõ biết Khổ tập, không rõ biết Khổ diệt, không rõ biết Con đường đưa đến diệt Khổ là Tám Chánh Đạo. Chính vì vô minh như vậy mới duyên sinh các Hành. Hành bao gồm thân hành, khẩu hành và ý hành.

Ví dụ do vô minh dẫn dắt nên mới có một thân hành sát sanh, trộm cắp, tà hạnh; do còn vô minh nên mới tạo khẩu hành ác bất thiện như nói dối, nói đâm thọc, nói lời ác độc, nói phù phiếm; do vô minh nên tạo tác các ý hành tham, sân, si.
 
Do Hành, có Thức sinh
Từ các thân hành, khẩu hành, ý hành sẽ duyên sinh cho Thức được hình thành. Thức ở đây là sự nhận biết, thức tri của các giác quan; bao gồm sự nhận biết của mắt (nhãn thức), của tai (nhĩ thức), của mũi (tỷ thức), của lưỡi (thiệt thức), của thân (thân thức) và của bộ não (ý thức).

Ví dụ kẻ ăn trộm hành nghề quen tay sẽ có nhãn thức, thân thức nhạy bén của thói trộm cắp. Một nông dân qua lao động thực tế sẽ có tỷ thức chuyên môn của một nông gia: ngửi mùi hương trái cây có thể biết nên thu hoạch hay chưa. Vị bác sĩ với ống nghe hành nghề một thời gian sẽ có đôi tai chuyên nghiệp biết được căn bệnh nơi thân chủ, đó là nhĩ thức của vị thầy thuốc…

Phân tích kỹ hơn có thể nhận thấy sáu thức được thực hiện là do sự vận hành hoạt động của các giác quan, hệ thống thần kinh và bộ não, đây cũng chính là những hoạt động của thân hành, khẩu hành (tầm, tứ) và ý hành. Nói chung nhờ có hành mà thức phát sinh, không có hành thì thức không hiện khởi, vì thế nên nói Hành duyên Thức.

Do Thức, có Danh-Sắc sinh  
Đến lượt mình Thức duyên cho Danh-Sắc. Danh có các chi phần thuộc tâm là Thọ, Tưởng, Tư duy, Xúc, Tác ýSắc là phần thân thể vật chất.

Ví dụ: người nông gia do ý thức mình sẽ được mùa hay thất bại nên mới có các cảm thọ vui hoặc buồn. Người bác sĩ sau khi ý thức được căn bệnh nhờ đó có thể tư duy tìm phương cách chữa trị. Kẻ trộm cắp sau khi nhận thức được món đồ có thể ăn cắp sẽ tác ý lấy trộm...

Trạng thái của sáu thức cũng ảnh hưởng và chi phối thân vật chất một cách mật thiết. Do vậy nên nói Thức duyên cho Danh-Sắc.

Do Danh-Sắc, có Sáu xứ sinh
Trong tiến trình kế tiếp Danh-Sắc cũng là duyên cho Sáu Xứ. Sáu Xứ là sáu phạm vi, môi trường, nơi chốn của mắt (nhãn xứ), tai (nhĩ xứ), mũi (tỷ xứ), lưỡi (thiệt xứ), thân (thân xứ) và não bộ (ý xứ). Từ tiến trình của Danh với thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý cùng với Sắc thân tứ đại nên mới có Sáu Xứ.

Ví dụ qua quá trình vận động của danh-sắc một kẻ tà hạnh trong các dục phải đi đến những môi trường ăn chơi để thoả mãn các giác quan của mình tức sáu xứ. Vì vậy nên nói Danh – Sắc duyên cho Sáu Xứ.

Do Sáu xứ, có Xúc sinh
Xúc là sự tiếp xúc của các giác quan với các sự vật, hiện tượng bên ngoài. Có sáu sự tiếp xúc: mắt tiếp xúc sắc (nhãn xúc), tai tiếp xúc âm thanh (nhĩ xúc), mũi tiếp xúc mùi hương (tỷ xúc), lưỡi tiếp xúc các vị (thiệt xúc), thân tiếp xúc môi trường (thân xúc) và ý căn tiếp xúc các pháp (ý xúc). Vì có môi trường của Sáu Xứ nên mới có sự tiếp xúc của sáu giác quan, không có Sáu Xứ không thể có Sáu Xúc. Do vậy nên nói Sáu Xứ duyên cho Xúc.

Do Xúc, có Thọ sinh
Thọ là những cảm giác, cảm thọ có được từ sự tiếp xúc của các giác quan với các sự vật, hiện tượng, môi trường bên ngoài. Tùy theo sáu xúc có sáu loại thọ tương ưng: thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh thọ do ý xúc sanh. Vì có xúc nên mới có cảm thọ, không có xúc không có cảm thọ. Xúc duyên Thọ là vậy.  

Do Thọ, có Ái sinh
Ái bao gồm ái sắc, ái thanh, ái hương, ái vị, ái xúc và ái pháp. Các ái này đều là hệ quả tất yếu từ sáu loại thọ. Từ các cảm thọ sanh khởi nên ái, không có thọ không phát sinh ái; vì cho dù là thọ khổ cũng là duyên tạo ra ái luyến thọ lạc hoặc thọ không khổ, không lạc. Vả lại, trong thực tế, không ít người dù phải chịu nhận bao thọ khổ nhưng vẫn ái luyến tà pháp hoặc người yêu của mình... Chính vì thế nên nói Thọ duyên Ái.

Do Ái, có Thủ sinh
Thủ là sự thủ giữ, nắm giữ, chấp thủ. Có bốn loại thủ:

-- Dục thủ là chấp thủ vào bản năng dục.
-- Giới cấm thủ là chấp thủ vào những giới luật không đúng như tà giới, ác giới; khiến ác pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm.
-- Kiến thủ chấp thủ vào tri kiến, kiến thức đã có.
-- Ngã luận thủ là chấp thủ vào các luận thuyết về bản thân hoặc thân kiến kiết sử.

Dễ dàng hiểu được các chấp thủ này đều có nguyên nhân từ nơi ái, không có ái thì không có thủ. Nói Ái duyên Thủ là vì vậy.

Do Thủ, có Hữu sinh
Hữu là sự hiện hữu, là tiền đề cho bị sanh, xuất sanh, tục sanh, giáng sanh nên còn được gọi là Sanh Hữu. Có ba sanh hữu: dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu (có khi được hiểu là dục ái, hữu ái và phi hữu ái với ý nghĩa các sanh hữu này đều do ái mà ra).

-- Dục hữu là hiện hữu dẫn đến tục sanh theo bản năng dục, hay còn gọi là dục giới. Kinh Nikaya đã nêu rõ:

“Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: - Hữu, hữu, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được xem là có hữu?

- Này Ananda, nếu không có hành động (nghiệp) và sự chín muồi của dục giới thời dục hữu có thể trình bày được không?

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới thấp kém. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt” (Bài kinh Hiện hữu, TC III:76 = [I.3.68]).

-- Sắc hữu là hiện hữu dẫn đến tục sanh có hình tướng, hình sắc cụ thể như tài sản, nhà cửa, vàng bạc, châu báu, sắc thân v.v.. tất cả được gọi chung là sắc giới.

Phật dạy tiếp: “Và này Ananda, nếu không có hành động và sự chín muồi của sắc giới, thời sắc hữu có thể trình bày được không? - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới bậc trung. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt (Sđd)

-- Vô sắc hữu là hiện hữu dẫn đến tục sanh không có hình sắc, hình tướng như tà kiến, tà tư duy; hoặc thói quen từ những giới cấm không đúng (hạnh con bò, con chó); hoặc tâm tham, sân, si; hoặc ái chấp chức tước, quyền thế, địa vị, công danh, sự nổi tiếng, đạo vị, thế giới chư Thiên v.v... tất cả gọi chung là vô sắc giới.

Phật dạy: “Và này Ananda, nếu không có hành động và sự chín muồi của vô sắc giới, thời vô sắc hữu có thể trình bày được không? - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới bậc thù thắng. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt (Sđd)

Những sanh hữu này đều do chấp thủ tạo ra, không có chấp thủ thì không có sanh hữu; nên nói Thủ duyên Hữu là vì vậy.

Do Hữu, nên có Sanh
Sanh theo định nghĩa trong kinh điển Nikaya đó là: “Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác bị sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các xứ”. Chính vì có Sanh Hữu là những tiền đề cho sanh nên mới có bị sanh, xuất sanh, giáng sanh hay tái sanh. Vì thế Hữu duyên Sanh được nêu lên.

Do Sanh, nên có Già, chết
Vì có Sanh nên mới có Già và Chết; không có sanh thì không có già, chết. Không có già, chết thì không có khổ đau. Do vậy nên nói Sanh duyên Già, Chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Điều này cũng có nghĩa toàn bộ khổ uẩn tập khởi cùng với nghiệp tái sanh luân hồi.

Trong cách quán 12 CPND trên nội pháp, một nhận thức hết sức quan trọng cần phải lưu ý, đó là xuyên suốt quá trình tái sanh luân hồi, quy luật nhân quả chi phối rất chặt chẽ và công bằng.

Chính nhờ có ý thức về mối quan hệ nhân duyên và biết tin vào quy luật nhân quả mà ngay trong kiếp hiện tại người tin vào tái sanh luân hồi cố tránh những điều xấu ác để không bị khổ đau trong hiện tại và cả trong kiếp tới. Đồng thời người này phải nỗ lực tu tập thân-miệng-ý thiện lành để được hưởng an lạc đời sau. Một người biết tích thiện, lánh ác là người không gây hại cho mình, cho người và cho xã hội.

Cho nên dù không có đời sau thì ngay trong kiếp sống này người tin học thuyết nghiệp và nhân quả luân hồi là người đem lại an lạc cho mình, cho người và cho xã hội; vì vậy họ được những người trí tán thán. Nhưng nếu có nhân quả đời sau, họ cũng được hưởng an vui sung sướng.

Bản thân những điều này đã chứng minh cụ thể cho ý nghĩa lợi mình, lợi người, không hại mình, không hại người, cho đời này, cho đời sau của Pháp Nhân Duyên và nhận thức tái sanh luân hồi.

Như vậy:

- Nếu con người do nhân Tạo hóa tạo ra, người tin nghiệp nhân quả luân hồi đã được một Tạo hóa hiền thiện tạo tác, họ đáng được tán thán. Nếu con người không do Tạo hóa tạo ra, người tin nghiệp nhân quả luân hồi cũng đáng được tán thán.

- Nếu con người do nhân kết hợp các điều kiện, người tin nghiệp nhân quả luân hồi đã được các điều kiện thiện kết hợp, họ đáng được tán thán. Nếu không do nhân kết hợp các điều kiện, họ cũng đáng được tán thán.

- Nếu con người do nhân các việc làm quá khứ tạo tác, người tin nghiệp nhân quả đã có quá khứ tốt lành nên nay họ mới biết sống thiện hạnh, tạo an lạc cho mình và mọi người, họ đáng được tán thán. Nếu không do việc làm trong quá khứ tạo tác, họ cũng đáng được tán thán.

- Nếu con người do nhân sanh loại tạo ra, người tin nghiệp nhân quả đã do sanh loại hiền thiện tạo tác, họ đáng được tán thán. Nếu không do nhân sanh loại tạo ra, họ cũng đáng được tán thán.

- Nếu con người do chính sự nỗ lực của bản thân tạo nên, người tin nhân quả nghiệp báo đã tự tạo ra sự nỗ lực của thiện lành, vì thế họ đáng được tán thán.

Liệu còn phải chứng minh gì nữa ở đây trong khi cũng không thể chứng minh cụ thể không có tái sanh luân hồi? Và phủ nhận tái sanh luân hồi liệu có lợi ích hay nguy hại gì cho bản thân mỗi con người và cho thế giới này? Phải chăng vì không tin vào quy luật nhân quả, không biết sợ nghiệp báo đời này đời sau, nên trước những cám dỗ hoặc hận thù, con người dễ phạm tội hơn?

"Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm."
(PC 176)

(Xem thêm kinh Tệ Túc (TrB.23 = [Vd.31]) và kinh Không Gì Chuyển Hướng (TB2, 60 = [So.13]) để biết từ hơn hai ngàn năm trăm trước vấn đề này đã được lý giải xác đáng như thế nào).

Hẳn, mỗi người Phật tử đều nhận thức rõ cơ sở hợp lý và ý nghĩa quan trọng trong việc đặt lòng tin vào quy luật nhân quả và nghiệp tái sanh luân hồi. Trên hết, mỗi người Phật tử ý thức rõ lời dạy của Bậc Đạo Sư:

“-- Này các Anuruddha, Như Lai không vì mục đích lường gạt quần chúng, không vì mục đích nịnh hót quần chúng, không vì mục đích lợi lộc, trọng vọng, danh xưng, quyền lợi vật chất, không vì với ý nghĩ: “Như vậy quần chúng sẽ biết Ta"; mà Như Lai giải thích sự tái sanh các vị đệ tử đã từ trần đã mệnh chung, nói rằng: "Vị này tái sanh ở chỗ này, vị này tái sanh ở chỗ này".

Và này các Anuruddha, có những Thiện gia nam tử có tin tưởng với tín thọ cao thượng, với hoan hỷ cao thượng, sau khi được nghe như vậy, sẽ chú tâm trên như thật (Tathata). Như vậy, này các Anuruddha, là hạnh phúc, là an lạc lâu đời cho các vị ấy (TB2, 68 = [Sb.18]) 

Người học Phật sẽ tự mình thực chứng được lời dạy trên khi quán xét kỹ về bốn nguồn động lực nuôi dưỡng sự tồn tại và thúc đẩy quá trình tái sanh được Đức Thế Tôn gọi là bốn nguồn thức ăn.


Bốn Thức Ăn

Trong tiến trình quán 12 CPND trên các nội pháp, bốn nguồn thức ăn được xác định rất cụ thể: “Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn này khiến cho các loại sanh vật hay các loại chúng sanh được tồn tại hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ sanh. Thế nào là bốn? Một là đoàn thực hoặc thô hoặc tế, hai là xúc thực, ba là tư niệm thực, bốn là thức thực (KinhCác Loại Ðồ Ăn”, TƯ2, 11 = [U.51.11])

-- Đoàn thực là thức ăn nuôi thân mạng nói chung. Trong thực tế, tất cả các chúng sanh đều phải dựa vào thức ăn để tồn tại, thế nhưng nếu không biết tiết độ trong ăn uống - thọ dụng quá độ hoặc khổ hạnh ép xác - dễ dẫn đến khổ đau và bệnh tật ngay trong hiện tại (bệnh tùng khẩu nhập).

Bên cạnh đó, ăn uống là một bản năng cơ bản cho tất cả các chủng loài chúng sanh, từ những sinh vật nhỏ bé cho đến những sanh loài to lớn, tất tất cả mọi loài chúng sanh đều bị trói cột bởi nghiệp lực tự nhiên này. Nhưng riêng chỉ có con người mới có đủ lý trí và nghị lực làm chủ bản năng cơ bản về ăn uống. Do vậy không có ý thức tiết độ về đoàn thực không những bị đau khổ ngay trong hiện tại mà còn là con đường rộng mở dẫn đi tái sanh dưới bất kỳ dạng nào trong tương lai.

“Trong một pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn chánh thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa ngay trong hiện tại, là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong một pháp?  -- Tất cả chúng sanh đều tồn tại nhờ đồ ăn.”  (Bài kinh Những Câu Hỏi Lớn, TC X:27, tr. 307 = [I.10.27])

"Người ưa ngủ, ăn lớn
Nằm lăn lóc qua lại,
Chẳng khác heo no bụng,
Kẻ ngu nhập thai mãi." 
(PC 325)

"Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức ăn”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thức ăn không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp” (Kinh Hai Pháp Tùy Quán, Tiểu Bộ 1, Kinh Tập, kinh số 139 (TiB1, 139) = [Sn.139]).

Chính vì vậy, trong Bát Quan Trai Giới có giới thứ sáu quy định ăn một ngày một bữa, không ăn phi thời. Giới luật này nhằm giúp tu tập để làm chủ và tiến tới triệt tiêu bản năng tham ái về ăn uống: ăn để sống, sống để làm việc, để tu tập giải thoát chứ không phải sống để ăn. Làm chủ bản năng ăn uống và đoạn dứt tham đắm thức ăn, dù chay hay mặn, không những bớt đi những hệ lụy ngay trong hiện tại mà còn khép lại một cánh cửa quan trọng dẫn đến tái sanh trong các sanh loài.

Vì thế Đức Phật dạy các Tỳ-kheo, để đoạn diệt bản năng tham ái đoàn thực, phải quán tưởng thức ăn nuôi sống mình hằng ngày giống như trường hợp của một cặp vợ chồng vượt qua bãi sa mạc, và để tồn tại họ không còn cách nào khác phải ăn thịt chính đứa con duy nhất của mình.

Có quán tưởng như vậy đối với đoàn thực mới giúp nhàm chán, ly tham, đoạn diệt bản năng cơ bản này, từ đó giúp đoạn diệt khổ đau do tái sanh

“Này các Tỷ-kheo, khi đoàn thực được hiểu biết, thời lòng tham đối với năm dục trưởng dưỡng được hiểu biết. Khi lòng tham đối với năm dục trưởng dưỡng được hiểu biết, thời không còn kiết sử, do kiết sử này, một vị Thánh đệ tử bị trói buộc để phải sanh lại đời này” (Bài kinh “Thịt Đứa Con”, TƯ2, 97, tr.175 = [U.51.63]).

-- Xúc thực, theo kinh văn, là nguồn “thức ăn” cho thọ. Trong 12 CPND, chi phần Xúc là duyên cho Thọ, vì nhờ có sự tiếp xúc nên bản năng cảm thọ mới được thoả mãn, duy trì để rồi dẫn đưa đến tiến trình tái sanh luân hồi.

Điều cần phải lưu ý là không phải chỉ có con người mới biết thỏa mãn các cảm thọ qua sự tiếp xúc, trái lại đây là bản năng chung cho tất cả mọi loài chúng sanh: từ các sinh vật cấp cao cho đến các sinh vật cấp thấp.

Tuy nhiên chỉ có con người mới có khả năng làm chủ bản năng cảm thọ này qua việc ý thức về nguyên nhân và sự nguy hiểm của xúc dẫn đến thọ dục. Khác với loài vật, chỉ trong xã hội loài người mới có các khái niệm nhân bản như “cha mẹ”, “vợ chồng”, “tình nghĩa”, “thuỷ chung”, “trách nhiệm”, “bổn phận”, “ơn nghĩa” v..v…

Chính vì những khác biệt này nên đã dẫn đến những giới hạn phân biệt trong quan hệ tính dục của con người không giống như các chúng sanh khác, và chỉ có con người mới có ý thức làm chủ bản năng dục lạc, không quan hệ dục ái bừa bãi.

Cho nên, trong năm giới căn bản của đạo Phật, có giới thứ ba cấm tà hạnh trong các dục là vì vậy. Người Phật tử biết gìn giữ giới luật này không những giúp đem lại an lạc, hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội ngay trong kiếp này; mà còn đóng lại một cánh cửa quan trọng dẫn đến những sanh thú đọa lạc trong đời sau.

Tiến hơn một bước, trong Bát Quan Trai, có giới cấm hành dâm và tránh xem múa, hát, nhạc, kịch; tránh dùng trang sức, trang điểm vòng hoa, hương liệu; tránh ngủ giường cao rộng vì các hành vi này kích thích sáu xúc từ đó khiến tăng trưởng cảm thọ thuộc năm dục trưởng dưỡng. Thực hiện các giới luật này là hạn chế nguồn “xúc thực”, cũng có nghĩa khép lại thêm một trong những cánh cửa dẫn đến tái sanh luân hồi cõi thấp, đọa xứ; để đạt đến cõi Trời, cõi người.

Do đó, để thấy sự nguy hiểm của “xúc thực”, Đức Phật dạy phải quán các chạm xúc để thoả mãn cho cảm thọ dục giống như một con bò ghẻ lở tìm cách cọ xát hết chỗ này đến chỗ khác để xoa dịu cơn ngứa, nhưng tại mỗi nơi đều có các sinh vật khác bám và cắn khiến nó càng ngứa thêm.

Tham đắm cảm thọ cũng giống như tham đắm dục lạc: “vui ít, khổ nhiều, ở đây nguy hiểm lại càng nhiều hơn”. Điều này có nghĩa càng tìm sự thoả mãn cho các cảm thọ qua sự tiếp xúc càng bị đau khổ nhiều hơn và thúc đẩy mạnh hơn tiến trình tái sanh trong các cõi đọa xứ, bàng sanh:

“Này các Tỷ-kheo, khi xúc thực được hiểu biết, thời ba cảm thọ được hiểu biết. Khi ba cảm thọ được hiểu biết, thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không có gì cần phải làm thêm nữa” (Sđd).

-- Tư niệm thực: Tư là tư duy, suy tư, tư lường. Niệm là nhớ nghĩ. Tư niệm thực là “thức ăn” tư duy và nhớ nghĩ. Trong kinh văn, tư niệm thực là nguồn dinh dưỡng cho ái luyến; vì có tư duy, nhớ nghĩ mới có ái luyến. Chính bởi tư niệm đến đối tượng khác nên ái luyến từ đó tăng trưởng và cột trói vào tiến trình 12 CPND: ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên khổ.

Vì vậy, Đức Phật dạy phải quán tư niệm thực, tức sự nhớ nghĩ nuôi dưỡng cho dục ái, giống như hố than hừng thiêu đốt những ai chìm đắm trong đó: “Này các Tỷ-kheo, khi tư niệm thực được hiểu biết, thời ba ái được hiểu biết. Khi ba ái được hiểu biết, Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không có gì cần phải làm thêm nữa” (Sđd).

-- Thức thực là nguồn “thức ăn” thứ tư dẫn đi tái sanh. Trong kinh văn, thức thực là nguồn thức ăn cho Danh-Sắc. Do vậy có thể hiểu thức thực chính là Thai thức trong bào thai (với nghiệp làm nhân và hành làm duyên mà có).

Như đã được biết, vì có thai thức nên mới hình thành Danh Sắc của hài nhi để rồi phải chấp nhận khổ đau của già và chết. Không những thế, ngay từ trong bụng mẹ, thai nhi đã phải chịu biết bao những khổ sở, bức bách, gò ép với biết bao nguyên nhân: từ những vận động vô ý của bà mẹ cho đến những thức ăn không thích hợp với thai nhi mà bà mẹ vô tình lạm dụng v.v… tất cả đều có thể làm cho thai nhi đã khổ càng thêm khổ.

Chính vì thế Đức Phật dạy phải quán “thai thức” hay “thức thực” như sự khổ đau của một tội nhân mỗi ngày bị đánh ba trăm hèo. “Này các Tỷ-kheo, khi thức thực được hiểu rõ, thời danh sắc được hiểu rõ. Khi danh sắc được hiểu rõ, thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không làm gì thêm nữa” (Sđd).

Ý thức được nguyên nhân và sự nguy hiểm của bốn nguồn thức ăn từ đó tiến đến làm chủ chúng cũng có nghĩa thực hiện sự đoạn diệt khổ đau.

“Và này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này do cái gì làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Bốn loại đồ ăn này do ái làm nhân, do ái tập khởi, do ái tác sanh, do ái làm hiện hữu…” (TƯ2,11 = [U.51.11])

“Này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực…, xúc thực…, tư niệm thực…, thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào không có thức an trú, tăng trưởng, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già, chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già, chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não” (TƯ2, 101 = [U.51.64]).

“Trong bốn pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn chánh thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa ngay trong hiện tại, là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong bốn pháp? -- Trong bốn đồ ăn (TC X:27, tr. 309 = [I.10.27.9]).

Tóm lại các cách quán này giúp người học Phật thấy rõ như thật sự nguy hiểm của dục, của xúc, của thọ, của ái; chúng tuy vui ít nhưng khổ lụy nhiều, và ở đây nguy hại càng nhiều hơn.

Nhờ biết như lý tư duy như vậy mới biết nhàm chán để đi tới ly tham và đoạn diệt dục tham với ý nghĩa nó là nguyên nhân gây ra đau khổ trong đời này lẫn đời sau. Trong quá trình đó, hơn ai hết, tự ta phải chịu trách nhiệm trước hạnh phúc và khổ đau của chính mình theo quy luật nhân quả và tái sanh luân hồi.

Đến đây người học Phật cần phân biệt nội dung các chi phần Nhân Duyên tùy theo từng cách quán. Bảng dưới đây giúp hệ thống các nhận thức về Thánh lý Nhân Duyên theo hai cách quán nội pháp và ngoại pháp.

Chi phần
Quán Nội Pháp
Quán Ngoại Pháp
1. Vô minh
Không hiểu rõ như thật bốn Thánh chân lý diệu kỳ (Bốn Diệu Đế)
Không tri kiến Bốn Diệu Đế, còn bị chi phối, sai sử bởi dục ái.
2. Hành
Thân hành, Khẩu hành, Ý hành
Hành động dục, hành dâm, hành lạc...
3. Thức
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức (Tiềm thức, tri thức, nhận thức, kiến thức…)
Thai thức, Nghiệp thức, Chủng tử thức.
4. Danh - Sắc
- Danh là tâm gồm: thọ, tưởng, tư duy, xúc, tác ý.
- Sắc là thân tứ đại.
Tâm thức và sắc thân hài nhi
5. Sáu xứ
(Lục Nhập)
Sáu xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ
Lục nhập: Sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nhập vào sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)  
6. Xúc
Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc
Giao tiếp, tiếp xúc với người thân
7. Thọ
Thọ do nhãn xúc sanh
Thọ do nhĩ xúc sanh
Thọ do tỷ xúc sanh
Thọ do thiệt xúc sanh
Thọ do thân xúc sanh
Thọ do ý xúc sanh
Thọ lạc,
Thọ khổ,
Thọ không khổ không lạc
8. Ái
Ái sắc, ái thanh, ái hương, ái vị, ái xúc, ái pháp
Dục ái, sắc ái, vô sắc ái (ái kiết sử)
9. Thủ
Dục thủ, giới cấm thủ, kiến thủ, ngã luận thủ
Chấp thủ, nắm giữ người thân yêu
10. Hữu
Dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu
Phải người thân yêu
11. Sanh
Sanh đẻ, xuất sanh, tái sanh
Sanh y
12. Già, chết
Già, chết, (sầu, bi, khổ, ưu, não)
Già, chết, (sầu, bi, khổ, ưu, não)


Để hiểu những cách phân tích trong kinh điển Nikaya nói chung, cũng như các cách quán tiếp theo dưới đây của 12 CPND nói riêng, cần phải phân biệt rõ các chi phần theo nội pháp hoặc ngoại pháp.

Ví dụ khi nói “ái của ngoại pháp” người học Phật phải biết gồm ba ái: dục ái, sắc ái, vô sắc ái; hoặc nói “thủ của nội pháp” phải biết gồm bốn thủ: dục thủ, giới cấm thủ, kiến thủ, ngã luận thủ v.v…

(Xem tiếp phần 2)