Friday 24 June 2011

Giải Mã Nhân Duyên 2

PHẬT LỊCH 2555
VESAK 2600


Giải Mã Tóm Lược
Hệ Thống Pháp Nhân Duyên
Theo 12 Cách Quán Căn Bản

(Phần 2)


Ñ_o_Ð


IV. Quán Pháp 12 CPND Trên Các Nội Pháp, Ngoại Pháp

Đây là cách quán kết hợp cả hai tiến trình nội pháp và ngoại pháp, gọi tắt là quán nội-ngoại pháp. Có ba cách quán nội-ngoại pháp 12 CPND.

- Cách thứ nhất là quán kết hợp lần lượt đầy đủ 12 chi phần từ nội pháp tới ngoại pháp như đã trình bày nêu trên.

- Cách thứ hai là quán mỗi chi phần cũng có thể mang hai nội dung nội-ngoại kết hợp. Ví dụ mỗi Thọ của nội pháp do sáu xúc sanh đều có ba loại: thọ lạc, thọ khổ, thọ không khổ không lạc; hoặc chi phần Ái của ngoại pháp gồm dục ái và sắc ái biểu hiện nơi ái sắc, ái thanh, ái hương, ái vị, ái xúc, ái pháp; còn vô sắc ái biểu hiện nơi ái sắc tưởng, ái thanh tưởng, ái hương tưởng, ái vị tưởng, ái xúc tưởng, ái pháp tưởng…

- Cách thứ ba là với nội dung mở rộng từ cách thứ hai có thể quán từ một chi phần của nội pháp làm duyên cho chi phần kế tiếp của ngoại pháp, hoặc ngược lại từ một chi phần của ngoại pháp sẽ là duyên cho chi phần kế tiếp thuộc nội pháp. Ví dụ từ sáu xúc (nội pháp) duyên cho ba thọ (ngoại pháp), ba thọ duyên cho sáu ái (nội pháp); hoặc từ ba ái (ngoại pháp) duyên cho bốn thủ (nội pháp) v.v…

Sự vận dụng đa chiều, đa dạng này tùy vào hoàn cảnh, đối tượng, mục đích; và tuy có khác nhau nhưng cũng chỉ nhằm thấy rõ khổ, nguyên nhân khổ và cách diệt khổ.

Có thể tìm thấy những điển hình cho cách quán Pháp 12 CPND trên các nội-ngoại pháp trong ba bài kinh Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Tiểu Kinh Phương Quảng và Đại Kinh Sáu Xứ thuộc Trung Bộ. Người học Phật như lý quán sát ba trích đoạn sau đây sẽ hiểu thêm thế nào là quán kết hợp nội-ngoại pháp Nhân Duyên.

1. Trích Đại Kinh Đoạn Tận Ái (TB1, 38 = [Sb.10]):

“… Này các Tỷ-kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình: ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình.

Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình.

 Và này các Tỷ-kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình.

Rồi này các Tỷ-kheo, người mẹ trong chín hay mười tháng mang bào thai ấy, với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Rồi này các Tỷ-kheo, sau chín hay mười tháng, người mẹ sinh đẻ với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Khi đã sinh, người mẹ nuôi hài nhi ấy với máu của mình. Này các Tỷ-kheo, trong luật của bậc Thánh, sữa của bà mẹ được xem là máu.

Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, sau khi các căn đã thuần thục, chơi với những trò chơi dành cho các đứa trẻ, như với cái cày nhỏ, chơi khăn, chơi nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ.

Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ sau khi lớn lên, sau khi các căn do mắt nhận thức, được thuần thục, thọ hưởng đầy đủ năm món dục lạc; các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc; các xúc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.

Khi thấy sắc bằng mắt, người đó tham ái đối với sắc đẹp, người đó ghét bỏ đối với sắc xấu, người đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của người đó được trừ diệt, không có dư tàn.

Như vậy, đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước thọ ấy. Vì tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy, nên dục sanh hỷ, có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Khi người đó nghe tiếng với tai... khi người đó ngửi hương với mũi... khi người đó nếm vị với lưỡi...  khi người đó cảm xúc với thân... khi người đó nhận thức pháp với ý, người đó tham ái đối với pháp tốt, ghét bỏ đối với pháp xấu. Người đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri đến tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của người đó được trừ diệt, không còn dư tàn.

Như vậy, đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy. Vì người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.”

Câu hỏi thảo luận:

_ Trong đoạn kinh trên các chi phần nào của 12 CPND được đề cập thuộc nội pháp? Các chi phần nào quán theo ngoại pháp?

_ Đức Phật quán chuyển đổi nội-ngoại pháp nhằm mục đích gì?

_ Sự quán chuyển như vậy có những ý nghĩa giúp diệt khổ cụ thể như thế nào?

2. Trích Tiểu Kinh Phương Quảng (TB1, 44 = [Vd.35]):

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ Kalandaka Nivapa. Rồi nam cư sĩ Visakha đến chỗ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna ở, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Visakha thưa với Tỷ-kheo-ni Dhammadinna:

-- Thưa Ni sư, tự thân, tự thân, (Sakkaya), được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân là như thế nào?

-- Hiền giả Visakha, Thế Tôn gọi năm thủ uẩn là tự thân, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn. Hiền giả Visakha, năm thủ uẩn này, Thế Tôn gọi là tự thân.

-- Lành thay, thưa Ni sư.

Nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo-ni Dhammadinna nói, rồi hỏi Tỷ-kheo-ni Dhammadinna thêm một câu hỏi nữa:

-- Tự thân tập khởi, tự thân tập khởi, thưa Ni sư, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân tập khởi (Sakkaya samudaya) là như thế nào?

-- Hiền giả Visakha, khát ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Hiền giả Visakha, khát ái này, Thế Tôn gọi là tự thân tập khởi.

-- Tự thân diệt, tự thân diệt, thưa Ni sư, được gọi là như vậy. Thế Tôn gọi tự thân diệt là như thế nào?

-- Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt, không tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp. Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt.

-- Thưa Ni sư, tự thân diệt đạo, tự thân diệt đạo, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo là như thế nào?

-- Hiền giả Visakha, Con đường Thánh tám ngành này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt đạo, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

-- Thưa Ni sư, thủ này tức là năm thủ uẩn kia hay thủ này khác với năm thủ uẩn?

-- Không phải, Hiền giả Visakha. Thủ này tức là năm thủ uẩn kia, thủ này không khác với năm thủ uẩn kia, Hiền giả Visakha, phàm có dục tham đối với năm thủ uẩn, tức là (chấp) thủ đối với chúng ở đây vậy…”

Câu hỏi thảo luận:

_ Năm thủ uẩn nằm trong chi phần nào của 12 CPND? Thuộc nội pháp hay ngoại pháp?

_ Ba ái thuộc nội hay ngoại pháp?

_ “Thủ này” là thủ gì?

_ Đoạn kinh thể hiện quán chuyển nội-ngoại pháp như thế nào?

_ Ai mới thực sự còn luyến ái tự thân, còn chấp thủ tự thân: cư sĩ Visakha hay Tỳ-kheo-ni Dhammadina? Vì sao?

3. Trích Đại Kinh Sáu Xứ (TB3,149 = [U.50]):

“Này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn mắt, thấy và biết như chơn các sắc, thấy và biết như chơn nhãn thức, thấy và biết như chơn nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, thấy và biết như chơn cảm thọ ấy; vị ấy không ái trước đối với con mắt, không ái trước đối với các sắc, không ái trước đối với nhãn thức, không ái trước đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không ái trước đối với cảm thọ ấy.

Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, không bị ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm thủ uẩn đi đến tàn diệt trong tương lai. Và ái của vị ấy, đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm sự hoan lạc chỗ này chỗ kia; ái ấy được đoạn tận; những thân ưu não của vị ấy được đoạn tận; những tâm ưu não được đoạn tận; những thân nhiệt não được đoạn tận; những tâm nhiệt não được đoạn tận; những thân khổ não được đoạn tận; những tâm khổ não được đoạn tận; vị ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc.”

Câu hỏi thảo luận:

_ Trong đoạn kinh trên các chi phần nào của 12 CPND được đề cập thuộc nội pháp? Các chi phần nào quán theo ngoại pháp?

_ “Cảm thọ thân lạc và tâm lạc” là thọ liên hệ đến chi phần nào khác của 12 Nhân duyên?

Cần nhắc lại là không phải chỉ hiểu các cách quán 12 CPND một cách đơn thuần, điều quan trọng hơn là từ đây nhận thức được những bài học diệt khổ một cách thiết thực cụ thể.

Người học Phật cần đọc và như lý tư duy toàn bộ kinh tạng Nikaya nói chung và ba bài kinh trên nói riêng, để thấy rõ hơn mỗi bài kinh trong hệ thống kinh tạng Nikaya là một bài học diệt khổ cụ thể, thiết thực hiện tại.


V. Quán Tánh Sanh Khởi Trên Pháp 12 CPND

Là quán hệ thống Nhân Duyên trong mối quan hệ chi phần trước là nguyên nhân hình thành chi phần sau theo quy luật “cái này có, cái kia có; cái này sanh, cái kia sanh”. Có thể quán tiến trình sanh khởi của 12 CPND theo ba chiều hướng khác nhau.

-- Quán tánh sanh khởi theo chiều hướng “đen” là quán tiến trình của nghiệp ác, bất thiện dẫn tới quả báo dị thục khổ đau (Ở đây, quả báo dị thục được hiểu chung là gồm quả báo trổ khác thời và có khi cả quả báo thấy liền ngay trước mắt, tức quả báo nhãn tiền)

-- Quán tánh sanh khởi theo chiều hướng “trắng” là quán tiến trình của nghiệp thiện lành đưa đến quả báo dị thục an vui sung sướng.

-- Quán tánh sanh khởi theo chiều hướng “đen và trắng” là quán tiến trình của nghiệp vừa thiện và vừa bất thiện đưa đến quả báo dị thục vừa lạc, vừa khổ.


5.1 Quán tánh sanh khởi trên Pháp 12 CPND theo chiều hướng “đen”

Trong tiến trình này, Vô minh ngoài ý nghĩa là không nhận thức được Bốn Thánh Chân Lý: Khổ-Tập-Diệt-Đạo, còn được hiểu thêm là không tin, không sống theo đạo lý Nhân Quả. Chính vì không ý thức được luật Nhân Quả nên mới tạo các hành ác, bất thiện để rồi phải chịu nhận khổ đau.

Vì vô minh không thấu rõ luật Nhân Quả nên mới tạo các thân hành sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Vì vô minh nên tạo khẩu hành nói dối, nói đâm thọc, nói ác độc và nói lời phù phiếm. Vì vô minh nên tạo các ý hành tham, sân, si. 

Từ các thân hành tạo nên các nghiệp nơi thân (thân nghiệp), từ các khẩu hành tạo nên nghiệp thuộc lời nói (khẩu nghiệp), từ các ý hành tạo nên nghiệp thuộc ý (ý nghiệp). Các thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp này do quy luật nhân quả không thể mất đi, mà tồn tại theo một dạng chung gọi là hành nghiệp.

Hành nghiệp giống như một kho lưu trữ tất cả các hành đã tạo ra và tồn tại dưới dạng tiềm thức nên cũng được gọi là Nghiệp thức. Với các hành ác, bất thiện được tạo ra và lưu giữ trong kho tàng của một nghiệp thức “đen”. Nói cách khác, hành đen sẽ tạo một nghiệp thức đen. 

Không có gì khó hiểu khi một Thức ác, bất thiện sẽ là nhân duyên tạo thành các tiến trình cho Thọ, Tưởng, Tư, Xúc, Tác Ý (tức Danh) và thân vật lý (tức Sắc) cũng theo chiều hướng ác, bất thiện. Như vậy thức đen duyên cho Danh-Sắc “đen” . 

Với Danh-Sắc đen cũng sẽ tạo nên Sáu Xứ “đen”. Ví dụ với một tư duy hoặc một tác ý ác, bất thiện sẽ là nhân duyên dẫn đến hệ quả là môi trường của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng lệ thuộc về môi trường ác, bất thiện (hay nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ và ý xứ “đen”).

Sáu xứ “đen” đến lượt mình sẽ là nhân, là duyên tạo các Xúc “đen”: Vì có môi trường ác, bất thiện nên mới có các tiếp xúc cũng theo chiều hướng ác, bất thiện.  

Vì các tiếp xúc theo chiều hướng bất thiện nên tạo các cảm thọ nơi con mắt, lỗ tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn cũng theo chiều hướng của ác, bất thiện. Ví dụ do tiếp xúc với rượu, thuốc phiện nên mới có các cảm thọ say sưa kích thích do rượu, thuốc phiện mang lại. Vì thế nên nói Xúc đen tạo Thọ “đen”.

Vì các cảm thọ thuộc về ác, bất thiện nên tạo ra ái luyến cũng theo chiều hướng “đen”. Ví dụ vì cảm giác hoan lạc với các đối tượng nơi chốn ăn chơi sa đọa nên sanh ra mê đắm, thích thú các đối tượng ấy. Hoặc dù chịu bao thọ khổ nhưng vẫn ái luyến giới con bò, con chó… Thọ đen dẫn đến Ái “đen” là vì vậy.

Với ái luyến theo chiều hướng bất thiện sẽ dẫn tới các chấp thủ tà dục, chấp thủ tà giới, ác giới; chấp thủ tà kiến và chấp thủ các tà thuyết về ngã. Như vậy Ái đen duyên cho Thủ “đen”.

Những chấp thủ theo chiều hướng tà pháp này dẫn đến các hữu “đen”, bao gồm:

-- Tà dục hữu tức các hiện hữu dẫn đi tái sanh vì tà hạnh trong các dục, do ác dục.

-- Tà sắc hữu tức các hiện hữu dẫn đi tái sanh có hình tướng và do tà nghiệp, tà mạng mà có. Ví dụ như sở hữu tài sản, nhà cửa, vàng bạc do trộm cắp, lừa lọc, cưỡng chiếm, cướp đoạt…

-- Tà vô sắc hữu tức các hiện hữu dẫn đi tái sanh không có hình tướng và cũng do tà nghiệp, tà mạng, tà giới tạo nên. Ví dụ như quyền lực do chiếm đoạt, chức tước do thủ đoạn, nếp sống tà giới do tà kiến…

Theo quy luật nhân quả, các tà sanh hữu này sẽ dẫn đến tái sanh “đen” tức phải sanh vào cõi dữ, đọa xứ, ác thú, địa ngục. Và tất nhiên tại các khổ cảnh này cũng có các hiện tượng già-chết tái diễn cho đến khi các nghiệp ác, bất thiện được trả hết.

Tóm lại đây là tiến trình sanh khởi theo chiều hướng đen và quả dị thục là khổ cảnh trong cõi đọa xứ.


5.2 Quán tánh sanh khởi trên Pháp 12 CPND theo chiều hướng “trắng”

Đây là tiến trình theo chiều hướng “ở hiền gặp lành”, sống thiện được quả báo an lạc, tức một thiện nghiệp hay một “nghiệp trắng” đưa đến quả báo dị thục “trắng”.

Khi đã nhận thức rõ và thực hành theo luật Nhân Quả, điều này cũng có nghĩa là minh sanh khởi, từ đó giúp đoạn diệt vô minh và đau khổ do vô minh. Nhờ hiểu và tuân theo luật Nhân Quả nên từ một thân hành, khẩu hành, ý hành thiện lành sẽ tạo nên một nghiệp thức thiện lành, tồn tại dưới dạng tiềm thức thiện hay nghiệp thức “trắng”.

Nghiệp thức trắng duyên cho Danh-Sắc trắng. Danh-Sắc trắng duyên Sáu Xứ trắng. Sáu Xứ trắng duyên Xúc trắng. Xúc trắng duyên Thọ trắng. Thọ trắng duyên Ái trắng… (Người học Phật cần tự mình như lý tư duy nội dung các chi phần theo chiều hướng thiện lành này)

Ái trắng duyên Thủ “trắng”. Ví dụ người cư sĩ chấp thủ chánh dâm với vợ hoặc chồng mình, vị tu sĩ chấp thủ vào hiểu biết của mình…

Thủ trắng duyên Hữu “trắng”. Dục hữu trắng là dục ái vợ-chồng chính đáng. Sắc hữu trắng là sanh hữu có hình tướng của thiện, ví dụ sở hữu tài sản do chính mình làm ra một cách chân chính. Vô sắc hữu trắng là sanh hữu thiện không có hình tướng, ví dụ nắm giữ công danh, đạo vị, quyền thế do thực tài chân chính mà có và tạo nhiều thiện phước…

Hữu trắng duyên cho Tái sanh “trắng” tức được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này theo đúng luật Nhân Quả. Và đương nhiên, cho dù được sanh vào cõi Phạm thiên cao nhất, nhưng nếu không tiếp tục giữ giới, tạo công đức mới thì sau khi hưởng hết phước báu vẫn phải chịu cảnh tái sanh luân hồi.

“Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ chư Thiên được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ chư Thiên bị tái sanh ở địa ngục... ở các loại bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.” (TC1, C1, tr.75 = [I.1.26.21]).

Như vậy xét dưới góc độ giải thoát triệt để thì tiến trình sanh khởi “trắng” vẫn chưa đạt được Minh một cách hoàn toàn. Bởi lẽ, một nghiệp trắng tuy ít vô minh hơn nghiệp đen nhưng vẫn không tránh khỏi cảnh sanh tử luân hồi.

Bên cạnh đó, trong cuộc sống thực tế, không phải chỉ có những nghiệp “đen” hoàn toàn, hoặc “trắng” hoàn toàn mà còn có những nghiệp vừa “đen” vừa “trắng”, tức các hành nghiệp vừa thiện vừa bất thiện.

Do đó người học Phật cũng cần phải tự quán tánh sanh khởi theo chiều hướng “đen và trắng” với quả báo vừa khổ vừa lạc. Đây cũng là cách quán kết hợp cả hai tiến trình nêu trên.

Nói một cách chung nhất: nếu nghiệp “trắng” nhiều thì quả dị thục an vui, an lạc nhiều hơn; ngược lại nếu nghiệp “đen” nhiều thì quả báo dị thục khổ đau, bất an nhiều hơn.

Tuy nhiên, như đã được biết, dù quán xét dưới bất cứ khía cạnh nào, các nghiệp nêu trên cũng dẫn đến quả báo già và chết trong sanh tử luân hồi. Chính vì vậy cần phải quán thêm tiến trình 12 CPND theo chiều hướng diệt tận.


VI. Quán Tánh Diệt Tận Trên Pháp 12 CPND

Nếu quán tánh sanh khởi 12 CPND là để hiểu rõ mối liên hệ thứ nhất “cái này có, cái kia có; cái này sanh, cái kia sanh”; thì quán tánh diệt tận để thấu suốt sự liên hệ thứ hai “cái này không có, cái kia không có; cái này diệt, cái kia diệt”. Nếu quán sanh khởi để thấy rõ khổ như thật và khổ từ đâu mà có, thì quán diệt tận để thấy rõ khổ được đoạn trừ như thế nào.

Trước đây cách quán sanh khởi được nói tới nhiều hơn, trong khi cách quán diệt tận không được lưu ý đúng mức. Ngay cả thói quen dịch khái niệm “pháp Nhân Duyên” là “pháp Duyên khởi” cũng chưa chính xác và đầy đủ, vì “duyên khởi” chỉ nói lên chiều sanh khởi chứ chưa nói đến chiều diệt tận và chiều sanh diệt của hệ thống giáo pháp này. Từ những nhận thức thiếu sót trên đã góp phần dẫn đến những ngộ nhận sai lầm cho rằng đạo Phật là bi quan, yếm thế, chán đời.

Chính vì thế việc triển khai giải thích về tánh diệt tận trên pháp 12 CPND cần được giới thiệu phổ biến rộng rãi hơn nữa nhằm xoá tan những thành kiến không đúng về Phật Pháp, và để thấy rõ thực sự đạo Phật là con đường tích cực giúp diệt khổ cho đời, chứ không đơn thuần chỉ thấy “đời là bể khổ”. 

Tiến trình diệt tận của 12 CPND có thể tóm lược như sau:

Vô minh diệt --> Hành diệt --> Thức diệt --> Danh-Sắc diệt --> Sáu Xứ diệt --> Xúc diệt --> Thọ diệt --> Ái diệt --> Thủ diệt --> Hữu diệt --> Sanh diệt --> Già, Chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.

Có thể quán tánh diệt tận trên pháp 12 CPND theo hai xu hướng: diệt tận hạn lượng diệt tận tối thượng.


6.1 Diệt Tận Hạn Lượng

Đây chính là chu trình với phương thức dùng các sanh khởi “trắng” để thay thế, diệt tận các sanh khởi “đen”. Cụ thể nhờ có Minh là có Chánh tri kiến và biết luật nhân quả nghiệp báo hiện hữu nên diệt được vô minh, tức những tà kiến và tà tư duy trái với luật nhân quả.

Nhờ có Minh, có Chánh tri kiến nên biết sống theo đạo luật Nhân Quả, do đó cũng biết thực hành thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện để thay thế cho thân hành ác, khẩu hành ác, ý hành ác. Như vậy là đã lấy Hành “trắng” diệt Hành “đen”.

Nguyên lý này đã được chính Đức Thế Tôn chỉ rõ: “Để đoạn tận thân ác hành, thân thiện hành cần phải tu tập. Để đoạn tận khẩu ác hành, khẩu thiện hành cần phải tu tập. Để đoạn tận ý ác hành, ý thiện hành cần phải tu tập” (TC VI:108, tr. 265 = [I.6.108]). Và đây cũng chính là phương thức của tiến trình Vô minh diệt thì Hành (đen) diệt.

Hệ quả tất yếu tiếp theo là: các hành thiện sẽ tạo nên một nghiệp thức thiện, và chỉ có nghiệp thức trắng này mới đoạn diệt và thay thế được nghiệp thức đen do hành đen mà có. Trong Đại Kinh Bốn Mươi (TB3, 117 = [U.36]), Đức Thế Tôn cũng đã xác định rõ nguyên lý diệt tận này:

“Tà nghiệp, này các Tỷ-kheo, do chánh nghiệp làm cho tiêu diệt, và những ác bất thiện pháp được tà nghiệp duyên khởi, các pháp ấy bị tiêu diệt trong người có chánh nghiệp. Tà mạng, này các Tỷ-kheo, do chánh mạng làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà mạng duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh mạng”. Đây cũng là phương thức cho tiến trình Hành đen diệt thì Thức đen diệt.

Tương tự, chu trình diễn tiến của sự đoạn diệt toàn bộ khối khổ uẩn 12 CPND kế tiếp theo phương thức tóm lược như sau:

-- Danh-sắc trắng diệt Danh-sắc đen: Thọ, tưởng, tư duy, xúc, tác ý và sắc thân thiện lành thay thế cho danh-sắc ác, bất thiện.

-- Sáu Xứ trắng diệt Sáu Xứ đen: Môi trường của sáu căn, sáu trần thiện lành thay cho môi trường tà vạy, bất thiện; như đi chùa nghe pháp thay vì đến các nơi ăn chơi sa đọa.

-- Xúc trắng diệt Xúc đen: Các tiếp xúc thiện thay cho tiếp xúc không thiện. Giao du tiếp xúc với bạn lành, với thiện tri thức thay cho kết giao với bạn bè xấu ác, hư hỏng.

-- Thọ trắng diệt thọ đen: Cảm thọ theo chiều hướng thiện thay cho các cảm thọ của tà dục, bất thiện.

-- Ái trắng diệt ái đen: Sự ái luyến thuộc thiện pháp thay thế các ái luyến thuộc tà pháp, tà dục. Như người cư sĩ ái luyến vợ chồng, con cái một cách chính đáng thay vì ái luyến do tà hạnh, tà dâm. Hoặc người cư sĩ chân chính thích thể thao, du lịch lành mạnh… thay vì thích rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập.

-- Thủ trắng diệt thủ đen: Chấp thủ theo xu hướng thiện lành thay cho chấp thủ theo chiều ác, bất thiện.  

-- Hữu trắng diệt hữu đen: Những sanh hữu thiện thay thế cho các sanh hữu ác, bất thiện.

-- Tái sanh trắng tức được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này để hưởng an vui hạnh phúc thay thế cho tái sanh đen, tức phải chịu khổ đau trong đọa xứ, bàng sanh, địa ngục. Và nhờ vậy già chết trong cõi lành thay cho già chết trong cõi dữ.

Người cư sĩ thực hiện năm giới chính là thực hiện sự đoạn trừ các sanh hữu đen. Trong Bát Quan Trai có thêm giới tránh ăn phi thời, tránh múa hát, nhạc, kịch; tránh trang sức, trang điểm và tránh dùng giường cao rộng… Các thiện giới này nhằm mục đích giúp người thọ trì đoạn dứt các dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu đen tích cực hơn. Và bao hàm hơn hết là những lời dạy của Đức Thế Tôn trong kinh tạng Nikaya và luật Patimokkha, tất cả đều được phân tích rõ ràng và chỉ dạy cụ thể các phương thức diệt tận khổ đau theo 12 CPND.

Cũng cần nhấn mạnh thêm, ngay trong khi dùng tiến trình “trắng” thay thế cho tiến trình “đen”, người sống nếp sống thiện cũng đã hưởng được những quả báo an vui, thiện lành ngay trong hiện tại đúng như lời dạy trong Kinh Pháp Cú.

16. "Nay vui, đời sau vui,
Làm phước, hai đời vui.
Người ấy vui, an vui,
Thấy nghiệp tịnh mình làm”

18. "Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Mừng rằng: "Ta làm thiện”,
Sanh cõi lành, sướng hơn”

Ngược lại, tạo ra nghiệp đen thì cả hai đời hiện tại lẫn tương lai đều phải chịu khổ đau:

15. “Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm.

17. “Nay than, đời sau than,
Kẻ ác, hai đời than,
Nó than: 'Ta làm ác'
Ðọa cõi dữ, than hơn”.

Như đã nói ở trên, dù được sanh cõi lành, hưởng an vui hạnh phúc của chư Thiên, vua chúa, giàu sang quyền quý đến đâu chăng nữa; nhưng nếu không tiếp tục giữ giới, cố gắng tạo thêm phước mới, đến khi phước cũ hết vẫn phải chịu tái sanh luân hồi, và nếu bị vô minh dẫn dắt thì khổ cảnh lại tái diễn.

Do vậy chu trình này chỉ là sự diệt tận có hạn lượng.

Có thể hình dung tiến trình diệt tận có hạn lượng giống như việc tẩy rửa một hồ nước dơ bẩn để trở thành một hồ nước trong sạch. Hồ nước nghiệp thức “đen” trước đây do ba “vòi nước” - Thân hành, Khẩu hành và Ý hành ác bất thiện - chảy vào và tạo nên. Muốn chuyển hoá hồ nước nghiệp ấy, trước hết phải “khóa” ba vòi nước đen lại, tức phải diệt tận thân hành, khẩu hành, ý hành ác bất thiện; đồng thời mở ba vòi nước sạch, trong lành cho chảy vào hồ. Ba vòi nước sạch này chính là ba thân hành, khẩu hành và ý hành thiện lành.

Việc chuyển hoá hồ nước nghiệp được nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp, phụ thuộc vào ba yếu tố sau:

-- Ba vòi nước sạch có khối lượng nước lớn hay nhỏ (giữ giới và hành thiện nhiều hay ít, đúng pháp hay không đúng pháp).

-- Ba vòi nước sạch chảy liên tục hay gián đoạn (các hành thiện thường xuyên hay lâu lâu một lần)

-- Có đầy đủ các “chất phụ gia” tẩy rửa hay không (Từ-Bi-Hỷ-Xả, Bố thí…).

Nếu thân hành, khẩu hành, ý hành thiện lành được làm cho sung mãn, liên tục, kèm thêm các “chất phụ gia” của Bốn Vô Lượng Tâm và các thiện pháp thích ứng thì hồ nước nghiệp đen dơ bẩn sẽ chuyển hóa thành hồ nước trong sạch mát lành một cách thực tiễn.

Trong bài kinh Vỏ Ốc, Đức Phật đã xác chứng con đường chuyển hoá nghiệp cùng với tu tập tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả vô lượng; Ngài dạy cho thôn trưởng Asibandhakaputta như sau:

“Này Thôn trưởng, vị Thánh đệ tử ấy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, chánh niệm, tỉnh giác, với tâm câu hữu với Từ… với Bi… với Hỷ… với Xả sống biến mãn một phương. Như vậy, phương thứ hai. Như vậy, phương thứ ba. Như vậy, phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Từ… với Bi… với Hỷ… với Xả quảng đại vô biên, không hận, không sân.

Ví như, này Thôn trưởng, một người lực sĩ thổi tù và (bằng con ốc), với ít mệt nhọc làm cho bốn phương được biết. Cũng vậy, này Thôn trưởng, tu tập từ tâm… bi tâm… hỷ tâm… xả tâm giải thoát như vậy, làm cho tăng trưởng như vậy, phàm nghiệp làm có hạn lượng, ở đây, sẽ không còn dư tàn; ở đây, sẽ không còn tồn tại.” (Trích lược TƯ4, 317 = [Su.11.8])

Tương tự, trong bài kinh Phạm Thiên Trú, Đức Thế Tôn đã chỉ rõ "Trước kia, tâm này của ta là nhỏ, không tu tập. Nhưng nay, tâm này của ta là vô lượng, khéo tu tập. Lại nữa, phàm nghiệp gì được làm có giới hạn, nay nó sẽ không sống trong giới hạn ấy nữa, nó sẽ không đứng trong giới hạn ấy nữa… Phàm ác nghiệp nào do ta làm từ trước với cái thân do nghiệp làm ra này, tất cả cần phải cảm thọ ở đây, nó không thể theo ta và được hiện hữu về sau” (TC X:208, tr.628 = [I.10.208]).

Trong kinh điển Nikaya sự chuyển hoá nghiệp được ví dụ cụ thể giống như trường hợp một nắm muối ở trong một chén nước nhỏ thì vị mặn gần như không thay đổi, nhưng khi cho vào một hồ nước rộng lớn, chất muối mặn được hoà tan gần như biến mất. Nắm muối ví như một nghiệp ác nhỏ. Chén nước nhỏ là một tâm lượng hạn hẹp, ích kỷ. Hồ nước rộng lớn tượng trưng cho “thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng” (xem TC III:99, tr.451 = [I.3.91]).

Theo một cách khác, cũng có thể hình dung sự chuyển hoá nghiệp bằng ví dụ như sau: có hai người cùng mắc nợ năm ngàn đồng, đến thời hạn phải trả, người thứ nhất do vẫn còn nghèo khó nên việc trả nợ rất khó khăn khổ sở. Ngược lại người thứ hai do biết làm ăn buôn bán nên giầu có, tài sản sung mãn với hàng tỷ đồng, hẳn nhiên việc trả món nợ năm ngàn đồng đối với người này là dễ dàng, không đáng kể.

Cũng vậy, việc chuyển hóa hồ nước nghiệp phụ thuộc vào việc làm giầu “Thánh tài sản”: tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài (TC VII:6, tr. 280 = [I.7.6]) cộng với việc làm thiện nhiều hay ít, thường xuyên hay gián đoạn và làm đúng chánh pháp hay không.

Do vậy, người học Phật khi đã nhận thức Thánh Lý Nhân Duyên không chấp nhận định mạng an bài theo kiểu: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”. Ngược lại, người Phật tử hiểu và vận dụng phương pháp chuyển hoá nghiệp, phải nói và thực hành một cách tích cực hơn theo phương châm: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, thì phải chuyển hoá nghiệp gần, nghiệp xa”.

Tu tập thân-khẩu-ý thiện lành để đoạn trừ thân-khẩu-ý bất thiện, đem lại an lạc ngay trong hiện tại, đó là chuyển hoá nghiệp gần ngay trước mắt. Đồng thời như vậy là đã thay một nghiệp thức đen bằng một nghiệp thức trắng, điều này cũng có nghĩa chuyển hóa được nghiệp xấu trong quá khứ để từ đó hưởng quả báo an vui trong tương lai, tức là đã chuyển hoá được cả nghiệp ở xa.

Như vậy bản thân điều này một lần nữa đã chứng minh cụ thể cho ý nghĩa thiết thực của quy luật về nghiệp và tái sanh luân hồi: “Và do duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy” là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia?

Có những loài hữu tình, này các Tỷ-kheo, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát như vậy, ác hạnh được hoàn toàn đoạn tận hay được giảm thiểu.

Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia” (Bài kinh “Sự Kiện Cần Phải Quan Sát”, TC V:57, tr. 421 = [I.5.57])

Khi mỗi người tự ý thức được rằng mọi hành động, lời nói, ý nghĩ của mình đều có hậu quả với chính mình cả trong hiện tại lẫn ở tương lai, nhờ vậy mỗi người mới cố gắng tự làm điều lành, cố tránh điều ác.

Trong một đất nước, nếu mọi người dân đều ý thức được quy luật nhân quả nghiệp báo như vậy, thử hỏi quốc gia ấy có bớt được các tệ nạn xã hội hay không? Có trở thành Thiên đường được không?

Rõ ràng chỉ cần thực hành theo cách quán diệt tận hạn lượng như trên thôi cũng đã cứu khổ cho con người rất nhiều!

Riêng đối với vị Tỳ-kheo muốn giải thoát ngay trong hiện tại và chấm dứt sanh tử luân hồi trong tương lai, phải cắt dứt nghiệp hoàn toàn, vì vậy phải biết và thực hành theo cách quán diệt tận tối thượng.


6.2 Diệt Tận Tối Thượng

Đây là quá trình thực hiện sự phá vỡ hoàn toàn, triệt để khối khổ uẩn của 12 CPND. Trong kinh điển Nikaya tiến trình này được gọi là “nghiệp không đen trắng, quả không đen trắng, nghiệp đi tới đoạn nghiệp” của vị Tỳ kheo.

Trong bài kinh Hạnh Con Chó, Đức Thế Tôn đã phân tích rõ có bốn loại nghiệp khác biệt cho du sĩ ngoại đạo Punna, người tu theo hạnh con chó:

“-- Này Punna có bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là bốn? Này Punna, có nghiệp đen đưa đến quả báo đen, này Punna, có nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, này Punna, có nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng, này Punna, có nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp” (TB57 = [So.12]). 

Người tu sĩ cần nghiên cứu kỹ bài kinh này để phân định rõ các nghiệp, nhờ vậy mới cứu khổ cho mình được. Trong đó, nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp được Đức Thế Tôn chỉ dạy:

“15. Và này Punna, thế nào là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này Punna chỗ nào có ý chí (Cetana: Tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng. Ở đây, này Punna, chỗ nào có ý chí như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp. “

Nói cách khác, đó chính là ý chí thực hành đúng theo Tám Chánh Đạo: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen trắng, quả không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt? Ðây là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây là nghiệp không đen trắng, quả không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt” (bài kinh Thánh Đạo, TC IV:235 = [I.4.235]).

Và đó cũng là ý chí thực hành tu tập Bảy Giác Chi: “Này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen trắng, quả không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt? Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Định giác chi, Xả giác chi. Này các Tỷ-kheo, đây là nghiệp không đen trắng, quả không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt.” (bài kinh Giác Chi, TC IV:236 = [I.4.236]).

Trong tiến trình diệt tận tối thượng, Vô minh bị đoạn diệt hoàn toàn nhờ Minh với các nguyên tắc được nêu lên trong Kinh Thánh Cầu: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn(TB1,26 = [Sb.6])

Như vậy chi phần Hành của tiến trình này phải được tịnh chỉ từng bước từ thô tới tế, từ từng phần đến toàn phần. Không tịnh chỉ các thân hành, khẩu hành, ý hành bất thiện mà nhảy ngang vào tịnh chỉ các hành vi tế là một ảo tưởng đầy nguy hiểm.

Do đó, đối với vị Tỳ-kheo, việc đầu tiên là thân hành, khẩu hành, ý hành phải được thanh tịnh hoá dựa trên nếp sống giới luật Patimokkha. Khi và chỉ khi nền tảng giới luật được thanh tịnh thì vị tu sĩ mới có thể thực hiện sự tịnh chỉ các hành triệt để hơn.

Chỉ một câu kinh ngắn thường được nhắc đến trong kinh tạng Nikaya cũng đã diễn tả sự đoạn diệt các hành, “Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt”.

Vị Tỳ-kheo đi đến khu rừng vắng, gốc cây, ngôi nhà trống không phải để chuyện phiếm, hý luận mà để thực hành hạnh “im lặng như Thánh” - đó là khẩu hành tịnh chỉ. Ngồi kiết già, lưng thẳng là thân hành tịnh chỉ. An trú chánh niệm trước mặt là ý hành tịnh chỉ.

Sự tịnh chỉ để đoạn diệt các hành phải tuần tự, không thể đốt giai đoạn, không thể đảo ngược. Đây là điều đã được Đức Thế Tôn tuyên bố trong nhiều bài kinh, điển hình như bài kinh “Sống Một Mình” (TƯ4, 216, tr.350 = [Ve.18.11]):

“Nhưng này Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự đoạn diệt các hành là tuần tự:

1.      khi chứng được Thiền thứ nhứt, lời nói được đoạn diệt;
2.      khi chứng Thiền thứ hai, tầm tứ được đoạn diệt;
3.      khi chứng Thiền thứ ba, hỷ được đoạn diệt;
4.      khi chứng Thiền thứ tư, hơi thở vô, hơi thở ra được đoạn diệt;
5.      khi chứng Không vô biên xứ, sắc tưởng được đoạn diệt;
6.      khi chứng Thức vô biên xứ, Không vô biên xứ tưởng được đoạn diệt;
7.      khi chứng Vô sở hữu xứ, Thức vô biên xứ tưởng được đoạn diệt;
8.      khi chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ tưởng được đoạn diệt;
9.      khi chứng Diệt thọ tưởng định, tưởng và thọ được đoạn diệt.

Ðối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tham được đoạn diệt, sân được đoạn diệt, si được đoạn diệt.”

Điều cần phải đặc biệt lưu ý là trong những trường hợp Đức Phật dùng hai chữ “tuyên bố”, thì vấn đề được nói đến có tầm quan trọng đặc biệt thuộc về nguyên tắc, không thể khác được. Nếu vì nóng vội, không tuân theo đúng lộ trình đoạn diệt tuần tự các hành, không những không đi đến kết quả như ý mà còn bị trở ngại về sau.

Điều này được Đức Phật khuyến cáo giống như con bò cái ngu si, chưa bước chân trước đã vội bước chân sau, sẽ không thể đi tới những miền đất mới lạ mà việc quay lui cũng gặp khó khăn (Tham khảo bài kinh “Con Bò Cái”, TC IX:35, tr. 167-173 = [I.9.35])

Cũng cần phải nói thêm, quá trình đoạn diệt các hành nêu trên không phải đơn thuần chỉ là các bước từ thấp tới cao, trái lại mang ý nghĩa từ bi tối thượng, tự độ và độ tha cao cả của vị Tỳ-kheo Thanh Văn. Cụ thể là bốn tầng thiền hữu sắc (1-4) thuộc về Chánh định nhằm giúp thực hiện Tam Minh đoạn diệt vô minh và lậu hoặc, chứng nhập Niết bàn Hữu dư y ngay khi còn sống (Đại Kinh Saccaka, TB1, 36 = [So.7]), và nhập Niết Bàn Vô dư y khi duyên thọ hành đã mãn (Kinh Đại Bát Niết Bàn, số 16, Trường Bộ 1 (TrB1, 16 = [Ab.7])).

Như vậy, một vị Tỳ-kheo Thanh Văn thực hiện được Tứ Thiền - Tứ Thánh Định viên mãn, vị ấy đã có thể tự độ giải thoát cho bản thân mình "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm (cho mình, PNGP) đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”.

Nhưng không chỉ có vậy, vị Tỳ-kheo Thanh Văn sau khi tự cứu được mình còn phải tích cực cứu giúp cho những người khác. Muốn cứu người khác thì phải hiểu rõ người khác tu chứng như thế nào, do vậy vị Tỳ-kheo còn phải nỗ lực tu tập bốn thiền vô sắc (5-8), tức các trạng thái định tưởng của các tu sĩ ngoại học chứng đạt, và Diệt thọ tưởng định của Đạo Phật (9) nhằm làm viên mãn Tứ Như Ý Túc, trong đó có Định như ý túc và Tuệ như ý túc tức năng lực trí tuệ và thiền định đầy đủ.

Mặc dù các Tỳ-kheo Thanh Văn biết rõ các thiền vô sắc chỉ là các trạng thái tịch tịnh của tưởng, không đưa tới giải thoát Niết Bàn thực sự, nhưng họ vẫn phải cố gắng tu tập thực chứng thêm các trạng thái thiền định này chỉ vì mục đích hoàn thiện khả năng hoá độ chúng sanh. Nhưng muốn thực hiện được những điều này, trước hết, vị Tỳ-kheo phải biết “sống một mình”.

Cũng theo tinh thần độ tha, trong bài kinh Tâm Hoang Vu (TB1, 16 = [U.10]), Đức Thế Tôn đã dạy cụ thể hơn: một vị Tỳ-kheo Thanh văn muốn giúp mình và người khác thoát khỏi năm tâm hoang vu và năm tâm triền phược, vị này phải tu tập pháp Tứ Như Ý Túc cùng với pháp nỗ lực.

Bởi lẽ cứu mình xong, vị Tỳ-kheo Thanh văn còn phải tiếp tục nỗ lực tu tập thực chứng các tầng thiền vô sắc, nhờ vậy mới biết cách cứu giúp cho người khác được. Đây là ý nghĩa độ tha trong tinh thần Từ Bi tối thượng của vị Tỳ-kheo - tức giúp mình, giúp người đoạn tận chân lý khổ đau của sanh-già-bệnh-chết.

Trong chín tầng thiền nêu trên, Diệt thọ tưởng định là mức thiền tuyệt đối nhất với ý nghĩa tự độ và độ tha (vì muốn đạt được định này vị Tỳ-kheo phải chứng được bốn thiền hữu sắc và bốn thiền vô sắc). Đây là trạng thái các hành diệt tận một cách vi tế với trình tự từ khẩu hành tịnh chỉ, thứ đến thân hành và cuối cùng là ý hành tịnh chỉ (Tham khảo Tiểu Kinh Phương Quảng, TB1, 44 = [Vd.35]  & kinh Kàmabhù (2), TƯ4, tr. 458-463 = [Vd.37.6]).

Biết làm tịnh chỉ các hành, trên cơ sở thoát ly sanh y, đoạn diệt dục ái, ly tham, tịch tịnh tiến tới đoạn diệt khổ đau hoàn toàn cũng là một tu sĩ biết đi và đến:

Ở đây, này các Tỷ-kheo, phương hướng nào trước kia chưa từng đi, tại đây mọi hành được chỉ tịnh, mọi sanh y được từ bỏ, ái được đoạn diệt, ly tham, hoại diệt, Niết-bàn, vị ấy đi đến chỗ ấy một cách mau chóng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị Tỷ-kheo biết đi đến” (TC V:140, tr.577 = [I.5.140]).

Đạt được tịnh chỉ các hành và vững trú trong trạng thái này để tiến tới đoạn tận lậu hoặc được xem như chứng được giới bất tử (TC IX:36, tr.176 = [I.9.36])

Tiến trình Hành diệt cũng là tiến trình của Thức diệt, “Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại trần không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ quấy rối.

Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với ngoại trần không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già, chết trong tương lai” (Kinh Tổng Thuyết và Biệt Thuyết, TB3, 138 = [U.45]).

-- “ Ai không có hoan hỷ,
Với nội và ngoại thọ,
Sở hành chánh niệm vậy,
Thức đạt được hoại diệt” 
(Kinh “Câu hỏi của thanh niên Udaya”, kệ số 1111, (Sn 214)).

Danh-Sắc diệt: “Trong hai pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn chánh thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa, ngay trong hiện tại, là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong hai pháp? -- Trong danh và trong sắc.” (Bài kinh “Những Câu Hỏi Lớn”, TC X:27, tr.308 = [I.10.27.6])

Sáu Xứ diệt: “…Như vậy, này Hiền giả, với Tỷ-kheo có tâm chánh giải thoát như vậy, nếu các sắc do mắt nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của con mắt, các sắc không chinh phục tâm vị ấy, tâm được an trú, không bị tạp nhiễm, không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận của chúng; nếu các tiếng do tai nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của lỗ tai... nếu các hương do mũi nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của lỗ mũi... nếu các vị do lưỡi nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của lưỡi... nếu các xúc do thân nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của thân… nếu các pháp do ý nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của ý, các pháp không chinh phục tâm vị ấy, tâm được an trú, không bị tạp nhiễm, không bị lay động...” (Bài kinh “Trụ Đá”, TC IX:26, tr.146 = [I.9.26.5]),

“Trong sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn chánh thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa ngay trong hiện tại, là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong sáu pháp? -- Trong sáu nội xứ”. (Bài kinh “Những Câu Hỏi Lớn”, TC X:27, tr.310 = [I.10.27.11])

Xúc diệt: “Xúc, này các Tỷ-kheo, là cực đoan. Xúc tập khởi là cực đoan thứ hai. Xúc diệt là chặng giữa. Ái là người dệt vải; vì rằng ái dệt nên khiến cho vị ấy phải sanh ở hữu này. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thắng tri được điều có thể thắng tri, liễu tri được điều có thể liễu tri. Do thắng tri được điều có thể thắng tri, liễu tri được điều có thể liễu tri, ngay trong hiện tại, vị ấy có thể chấm dứt khổ đau.” (Bài kinh “Con Ðường Ði Ðến Bờ Bên Kia”, TC VI:61, tr.196 = [I.6.61])

Thọ diệt: “Trong ba  pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn chánh thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa, ngay trong hiện tại, là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong ba  pháp? -- Trong ba thọ” (Bài kinh “Những Câu Hỏi Lớn”, TC X:27, tr. 308 = [I.10.27.8]).

“Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra...

Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra” (Kinh sáu sáu, TB3, 148 = [U.49])

(Xem Tương Ưng tập 4, phần liên quan đến Thọ = [Ve.18])

Ái diệt: “Bốn niệm xứ này, thưa chư Hiền, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn tận khát ái”. (Kinh Ái Tận, TƯ5, 300, trang 450 = [Vd.32.10]).

“Vô minh được xả ly, minh khởi, tham ái được đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong tương lai không xảy ra” (Đại Kinh Phương Quảng, TB1, 43 = [Vd.1.19]);

Vô minh và hữu ái, này các Tỷ-kheo, những pháp này được gọi là những pháp cần phải đoạn tận với thắng trí” (Kinh Thắng Trí, TC IV:251, tr.288 = [I.4.251]). Thắng trí ở đây có thể hiểu là trí tuệ về Thánh lý Nhân Duyên.

Thủ diệt: "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thủ”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thủ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp”  [Sn139]

Hữu diệt: “Này các Tỷ-kheo, sự kiện là như sau: khi Thánh giới được giác ngộ, được thể nhập; khi Thánh trí tuệ được giác ngộ, được thể nhập; khi Thánh giải thoát được giác ngộ, được thể nhập, cắt đứt là hữu ái; sợi dây đưa đến sanh hữu được đoạn tận, nay không có tái sanh.” (TC VII:62, tr. 425 = [I.7.62.11])

Sanh diệt và già chết cũng diệt: - “Chính vì không thấy như thật Bốn Thánh đế nên có sự luân chuyển lâu ngày trong nhiều đời. Khi những sự thực này được nhận thức, nguyên nhân của một đời sống khác được trừ diệt, khi khổ căn được đoạn trừ, sẽ không còn một đời sống khác nữa” Kinh Đại Bát Niết Bàn (TrB1, 15 = [Ab.7.37]).

“Này các Tỷ-kheo, khi Thánh Giới được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Ðịnh được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Tuệ được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Giải thoát được giác ngộ, được chứng đạt, thời tham ái một đời sống tương lai được trừ diệt, những gì đưa đến một đời sống mới được dứt sạch, nay không còn một đời sống nào nữa” (TrB1, 15, tr. 616 = [Ab.7.113]).

Như vậy là nghiệp với toàn bộ khổ uẩn được diệt tận trên cơ sở tất cả các chi phần được diệt tận hoàn toàn.

Sự đoạn diệt từng chi phần bắt đầu từ vô minh cho tới già chết phải được thực hiện theo đúng lộ trình tu tập của Tám Chánh Đạo gồm Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Điều này đã được Đức Phật nêu rõ trong các kinh Nikaya và ngài Xá-lợi-phất phân tích cụ thể trong kinh Chánh Tri Kiến (TB1, 9 = [Vd.3]).

Bên cạnh đó, Đức Phật cũng đã dạy thêm:

“… Do vô minh khởi, hành khởi. Do vô minh diệt, hành diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành đưa đến sự đoạn diệt các hành. Tức là Chánh Tri Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.

Này các Tỷ-kheo, do vị Thánh đệ tử biết duyên như vậy, duyên tập khởi như vậy, duyên đoạn diệt như vậy; biết rõ con đường đưa đến đoạn diệt như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đạt tri kiến, đạt kiến, đã đạt đến diệu pháp này, thấy được diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ hữu học minh, đã nhập được pháp lưu, là bậc Thánh minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử” Kinh Duyên (TƯ2, 42 = [U.51.27]).

“…Do biết rõ sanh như vậy... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... Do biết rõ hành như vậy, biết rõ hành tập khởi như vậy, biết rõ hành đoạn diệt như vậy, do biết rõ con đường đưa đến hành đoạn diệt như vậy.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy được gọi là đạt tri kiến, đạt kiến, đã đi đến diệu pháp này, thấy được diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ hữu học minh, đã nhập được Pháp lưu, là bậc Thánh minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử” Kinh Vị Tỷ Kheo (TƯ2, 43 = [U.51.28.27]).

Người học Phật cần nghiên cứu cẩn trọng toàn bộ kinh tạng Nikaya để tri kiến những phương pháp diệt tận khổ đau từ hạn lượng đến tối thượng. Sẽ thật thiếu sót nếu chỉ đọc một vài bài kinh trong tạng kinh vô giá đó. Lại nữa, điều cần đặc biệt lưu ý là phải nắm vững nội dung của Đạo Đế - Tám Chánh Đạo theo đúng với định nghĩa của Đức Phật và đã được giải thích, phân tích rất đầy đủ trong kinh tạng Nikaya.

Ở đây chỉ nêu nội dung trích yếu của Chân lý về Con Đường Diệt Khổ đúng theo kinh văn:

-- Chánh Tri Kiến là nhận thức đúng bốn chân lý của bậc Thánh (Bốn Diệu Đế): Chân lý của khổ, Chân lý nguyên nhân khổ, Chân lý của trạng thái diệt khổ và Chân lý về con đường đi đến diệt khổ.

-- Chánh Tư Duy là tư duy không dục, tư duy không sân, tư duy không hại mình và các chúng sanh khác.

-- Chánh Ngữ là không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói ác độc, không nói phù phiếm.

-- Chánh Nghiệp là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không phi phạm hạnh.

-- Chánh Mạng là nuôi thân mạng một cách chân chánh, không theo tà mạng.

-- Chánh Tinh Tấn là Bốn Chánh Cần tức biết tinh tấn đúng đắn theo bốn hướng ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.

-- Chánh Niệm là Bốn Niệm Xứ tức nhớ nghĩ quán sát chân chánh theo bốn lãnh vực quán thân trên thân, quán thọ trên các thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp.

-- Chánh Định là Bốn Thiền (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền).

(Tham khảo kinh Phân Tích (TƯ5, 8, tr.20 = [Ve.10.8]); Đại Kinh Niệm Xứ, TrB2, 22 = [U.1]; Kinh Phân Biệt Sự Thật, TB3, 141 = [U.47]).

Không biết rõ nội dung Tám Chánh Đạo, không nhận thức đúng đắn và đầy đủ Chân-lý-về-con-đường-diệt-khổ như trên không thể đoạn diệt khổ đau theo hạn lượng cũng như tối thượng.

Bên cạnh đó, không biết phân biệt Tám Chánh Đạo và bát tà đạo thì không thể bảo vệ mình tránh khỏi tà kiến, không thể xương minh đúng chánh Phật pháp. Trong ý nghĩa đó, người học Phật cần phải biết thêm về cách quán tánh sanh diệt trên pháp 12 CPND.


 VII. Quán Tánh Sanh Diệt Trên Pháp 12 CPND

Cách quán này là sự kết hợp của hai cách quán sanh khởi và diệt tận trên pháp 12 CPND. Có hai cách quán sanh diệt trên hệ thống này.

Cách 1: Quán đồng thời tiến trình sanh và diệt trên toàn bộ hệ thống Nhân Duyên giống như đã trình bày ở các phần trước.

Cách 2: Quán tánh sanh-diệt trên từng chi phần của pháp 12 CPND. Trong cách quán này, bản thân mỗi chi phần của hệ thống cũng là một pháp, do đó cũng phải theo quy luật chung “phàm các pháp có sanh thì phải có diệt” (Xem kinh Duyên, TƯ2, 25 = [U.51.20]).

Sự sanh diệt của các chi phần diễn biến rất đa dạng và phong phú, người học Phật cũng cần tập quán xét tánh sanh diệt theo cách thứ hai này nhằm tăng trưởng thắng trí về Phật pháp.

Tùy theo từng hoàn cảnh và điều kiện cụ thể có thể rút ra những nhận thức thiết thực nhằm giải thoát khỏi khổ đau bằng quán tánh sanh diệt trên toàn bộ hệ thống cũng như trên từng chi phần một.

Ở đây, chỉ gợi ý quán tiến trình sanh diệt theo cách thứ hai với chi phần Thức Danh-sắc như một ví dụ tiêu biểu nhằm tìm hiểu thêm về một cách quán căn bản của 12 CPND.

7.1 Quán Tánh Sanh Diệt Trên Chi Phần Thức và Danh Sắc

Như đã biết ở trên, do vô minh nên duyên sanh khởi các thân hành, khẩu hành và ý hành. Các hành này là duyên sanh khởi nên sáu thức. Đến đây tiến trình sanh khởi bị thay thế bằng tiến trình diệt, nói đơn giản là hiện tượng chết xảy ra.

Lúc này sáu thức sẽ không thể duyên khởi cho Danh-Sắc, Danh-Sắc cũng không duyên sanh cho sáu thức, và cả hai phải bị huỷ diệt: “Thức duyên Danh-sắc, Danh-sắc duyên Thức; cái này có - cái kia có, cái này diệt - cái kia diệt” (Kinh Đại Bổn, TrB1, 13 = [Ja.3])

Thức và Danh là tâm, sắc là thân. Điều này có nghĩa khi tim ngừng đập, hơi thở không còn, thân nhiệt lạnh ngắt, các hành diệt tận thì thân cũng bị huỷ diệt và tâm cũng huỷ diệt theo, cả hai đều không còn gì cả.

Như vậy chết là hết? là diệt tận hoàn toàn? hoặc được cứu rỗi dễ dàng theo mong ước?

Đã có không ít người suy nghĩ đơn giản như vậy để rồi thoải mái gây ra biết bao đau khổ cho mình và cho người. Nhưng khốn thay, thực tế lại không đơn giản như họ nghĩ. Cuộc sống mà cạn cợt kiểu ấy thì con người vĩnh viễn phải chìm đắm trong khổ đau vì những kẻ không biết sợ hãi trước những điều đáng phải sợ hãi, và đạo Phật đã không ra đời với ý nghĩa là một diệu pháp cứu khổ.

Vì sao thực tế không đơn giản? Vì thế giới này có những quy luật riêng của nó, và sự chi phối của những quy luật này cặn kẽ đến độ ngay cho dù là một thầm ý trong tâm cũng phải trả vay sòng phẳng. Người quán sát kỹ sự thể hiện của quy luật nhân quả và quy luật nhân duyên mới có thể nhận thức được thực tế này.

Ở đây, quán sát sự sanh diệt của Thức và Danh-Sắc, theo quy luật nhân duyên, điều cần phải biết thêm đó là: các thân hành, khẩu hành, ý hành ngoài việc tạo ra sáu thức chúng còn tạo nên nghiệp thức nữa. Nghiệp thức này chính là kết quả của các hành nghiệp được lưu giữ dưới dạng tàng thức hay tiềm thức, và theo quy luật sanh diệt: hành có, nghiệp thức phải có; hành diệt, sáu thức diệt.

Vì sao khi thân hoại mạng chung chỉ có sáu thức diệt? Vì còn quy luật nhân quả chi phối vào tiến trình này, và vì thế nghiệp thức không thể biến mất hoàn toàn mà nó chỉ chuyển hoá thành dạng thức mới với các nhân duyên tương ứng. Nói đúng hơn, khi hành (nội) diệt, nghiệp thức cũ cũng bị “diệt” theo ý nghĩa nó không thể tồn tại trong một dạng thức cũ, mà phải chuyển hóa để tồn tại trong một dạng thức mới, chứ không biến mất hoàn toàn.

Dạng thức mới của nghiệp thức chính là thai thức. Và sự chuyển hóa này lấy nghiệp làm nhân và hành (ngoại) làm duyên để tạo nên sự nhập thai. Từ đây hình thành một Danh-Sắc mới cho một tiến trình tái sanh mới với các quả dị thục mang lại. Và như vậy chu trình sanh rồi diệt, diệt rồi sanh của Thức và Danh-Sắc tiếp diễn không cùng trong sanh tử luân hồi:

“Này Ananda, trong giới hạn con người được sanh, con người được già, con người được chết, con người được diệt, hay con người được tái sanh, trong giới hạn ấy là danh mục đạo, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ đạo, trong giới hạn ấy là thi thiết đạo, trong giới hạn ấy là tuệ giới, trong giới hạn ấy là lưu chuyển luân hồi hiện hữu trạng thái này trạng thái khác nghĩa là danh sắc và thức.” (Kinh Đại Duyên, TrB 1, 15 = [Sb.31.22]).

Hiểu được điều này người học Phật sẽ không còn thắc mắc trước những hiện tượng mà thế gian cho là “siêu nhiên thần bí”. Ví dụ như trường hợp các “thần đồng” chưa đi học đã biết đọc, biết làm toán, đánh đàn... hoặc có em sau một chấn động nào đó lại nói được ngoại ngữ, làm được nhiều việc trước đây em chưa từng biết.

Tất cả những biểu hiện nêu trên chỉ là chứng minh cho sự tồn tại của tiềm thức qua những kiếp luân hồi. Và vì là tiềm thức nên khi nó bị ý thức thực tại phát triển mạnh hơn và phủ lấp, nhiều “thần đồng” lại trở thành các nhi đồng bình thường như bao em khác mà thôi!

Muốn đoạn dứt mối quan hệ tương tác phức tạp giữa Thức và Danh sắc để giải thoát khổ đau khỏi sanh tử luân hồi, duy nhất chỉ có Đạo Đế - Tám Chánh Đạo. Khi và chỉ khi thực tri được chiều sâu mối quan hệ này, người Phật tử mới tránh được ảo tưởng mê mờ tin rằng còn có một phương pháp nào khác ngoài Tám Chánh Đạo cũng có thể giúp đi tới giải thoát hoàn toàn.

Cần nhắc lại, Tám Chánh Đạo là Đạo Đế tức Chân lý về con đường diệt khổ dành cho mọi người, qua mọi thời đại và ở bất kỳ nơi nào:

“Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Ta đã chứng đắc con đường này đưa đến giác ngộ, tức là do danh sắc diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt… thọ diệt… ái diệt...  Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt…

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường cũ, đạo lộ cũ ấy do các vị Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua? Ðây chính là con đường Thánh đạo tám ngành, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định” (TƯ2, 104 = [U.51.65]).

Xa xưa đã như vậy, nay cũng như vậy và tương lai mãi mãi cũng sẽ như vậy, không thể sai khác. Bởi, Tám Chánh Đạo là Đạo Đế - tức Chân lý về con đường diệt khổ!


7.2 Ba Quy Luật Quan Trọng

Trên đây là cách quán sanh diệt trên chi phần Thức và Danh sắc. Sự tái sanh khởi và diệt tận này trong giới hạn của danh mục đạo, của ngôn ngữ đạo, của thi thiết đạo và của tuệ giới cần được nhận thức thêm với sự chi phối bởi ba quy luật sau:

1) Ở đâu có tham ái, ở đó có tái sanh: “Này Vaccha, trong khi một loài hữu tình quăng bỏ thân này và sanh vào một thân khác, này Vaccha, Ta tuyên bố rằng trong khi ấy chính ái (tanhà) là nhiên liệu (upàdànam)” (TƯ4, 398 = [Sb.38.9]).

“Này các Tỷ kheo, thế nào là Khổ tập Thánh đế? Sự tham ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Như dục ái, hữu ái, vô hữu ái.” (Đại Kinh Niệm Xứ, TrB2, 22  = [U.1.19]).

2) Với ái làm nhiên liệu, sự tái sanh sẽ diễn ra dưới bất kỳ dạng thức nào, vì phải tuân theo quy luật thứ hai: “Thức do duyên khởi, không có duyên thì thức không hiện khởi” (Đại Kinh Đoạn Tận Ái, TB1, 38 = [Sb.10.7]).

Như đã được biết, chính Hành là duyên cho Thức hiện khởi, và đương nhiên, không phải chỉ có con người mà tất cả các chủng loài chúng sanh khác cũng có thể hành động kết hợp với nhau theo bản năng để tạo môi trường cho việc chuyển hoá nghiệp thức thành thai thức.

Nói cách khác, bụng dạ của muôn loài chúng sanh luôn luôn mở rộng để cho một nghiệp thức tương ưng hoặc không biết tu tập đúng chánh pháp được tái sanh luân hồi. Chỉ cần xét tỷ lệ con người trong tổng số muôn loài chúng sanh đang hiện hữu cũng dễ dàng hiểu được lời Phật dạy:

“Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ loài Người được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ loài Người bị tái sanh ở địa ngục... ở các loại bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.” (TC I, tr.75 = [I.1.26.15]).

3) Bên cạnh hai quy luật trên, quy luật nhân quả là quy luật quan trọng nhất chi phối môi trường tái sanh. Sự thể hiện của quy luật nhân quả hoàn toàn không đơn giản.

Tuy nhiên, nói chung, một nghiệp thiện lành sẽ là nhân duyên cho một quả dị thục an vui, sung sướng; ngược lại một nghiệp bất thiện là nhân duyên để phải chịu một quả báo dị thục khổ đau.

Sự tái sanh diệt của Thức và Danh-sắc theo nhiều cấp độ khác nhau, thể hiện qua bốn hình thức sanh đã được Đức Phật xác định: thấp sanh, noãn sanh, thai sanh hoá sanh.

Bốn hình thức này thể hiện tất cả các quy luật nêu trên, trong đó đặc biệt chịu chi phối bởi quy luật nhân quả.

- Thấp sanh là sanh nơi ẩm thấp, nơi xác chết hư thúi như dòi bọ, sinh vật đơn bào…

- Noãn sanh là sanh dưới dạng trứng hoặc đập vỏ cứng chui ra như ếch, nhái, gà, vịt, chim…

- Thai sanh là sanh từ bào thai như bò, nai, sư tử, loài người…

- Hoá sanh là sanh bằng sự chuyển hoá. Một số chúng sinh hoá sanh trong thế giới chư Thiên, một số hoá sanh trong đọa xứ, địa ngục; và một số hoá sanh trong loài người (Đại Kinh Sư Tử Hống, TB1,12 = [Sb.2])

(Trường hợp sanh sản vô tính cũng tùy theo các trường hợp trên để định danh)

Theo đạo luật nhân quả công bằng, tất cả bốn hình thức sanh này đều chịu quy định của chính nghiệp đã tạo. Vấn đề này sẽ được thấy rõ hơn qua việc tìm hiểu về hoá sanh.

Một chúng sanh tạo một hành nghiệp toàn trắng - tức thân hành, khẩu hành, ý hành toàn thiện - khi thân hoại mạng chung sẽ được quả dị thục hóa sanh lên cõi chư Thiên tương ứng để hưởng phước báo sung sướng mà mình đã tạo ra. Tất nhiên, dù là Đại Phạm Thiên nhưng nếu không tiếp tục giữ giới, làm phước thêm, khi hưởng hết phước báu cũ sẽ lại chịu cảnh luân hồi.

Trong khi đó, các chúng sanh tạo một hành nghiệp toàn đen - tức thân hành, khẩu hành, ý hành toàn ác - khi chết sẽ không thể được thai sanh, noãn sanh thậm chí thấp sanh, mà phải hoá sanh vào địa ngục hoặc đọa xứ để gánh chịu tất cả những quả báo khổ đau do chính mình gây ra cho đến khi trả hết nghiệp.

Riêng đối với một số người, dù chưa chứng Hữu dư y Niết Bàn ngay trong hiện tại, nhưng do đoạn dứt được năm hạ phần kiết sử (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân), tại đấy cũng được hoá sanh nhập Niết Bàn. Đó là do những vị này đã tu tập đúng chánh pháp; tạo được một nghiệp không đen, không trắng, nghiệp đi tới đoạn nghiệp, vì thế không còn bị thấp sanh, noãn sanh hoặc thai sanh mà phải được hoá sanh giải thoát.

“Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, ở tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại thế giới này nữa. Những vị ấy, sau khi lội cắt ngang dòng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn” (Tiểu Kinh Người Chăn Bò, TB1, 34, trang 496 = [U.16.8]). 

Nói chung, mỗi chúng sinh trong quá trình sanh diệt tự tạo lấy nghiệp cho mình và bị chi phối bởi chính nghiệp lực ấy theo sự công bằng của luật Nhân-Quả. Xuyên suốt toàn bộ kinh tạng Nikaya, Đức Thế Tôn đã triển khai, lý giải và chỉ dạy những phương cách cụ thể để diệt khổ trong mối liên hệ mật thiết với sự nhận thức về nhân quả thông qua nghiệp.

Một kết luận có tính tiêu biểu đã được nói đến trong Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt: “Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.(TB3, 135 = [So.34.3])

Như vậy, mọi chúng sanh đều phải chết, thân và tâm đều bị huỷ hoại, thế nhưng chết không phải là hết, không phải là sự đoạn diệt hoàn toàn, mà trái lại chỉ là sự bắt đầu cho một nghiệp tái sanh luân hồi mới do chính mỗi người đã tạo ra:

“Mọi chúng sanh sẽ chết,
Mạng sống, chết kết thúc,
Tùy nghiệp, họ sẽ đi,
Nhận lãnh quả thiện ác,
Ác nghiệp, đọa địa ngục,
Thiện nghiệp, lên Thiên giới.
Do vậy hãy làm lành,
Tích lũy cho đời sau,
Công đức cho đời sau,
Làm hậu cứ cho người.”
(Bài kinh Tổ Mẫu, TƯ1, 96 = [Su.9.21])

Do vậy, sống thiện hay ác ở hiện tại đều phải gặt quả sòng phẳng cho cả tương lai, dù có chạy đằng trời cũng không khỏi nghiệp báo. Nếu tất cả mọi người đều ý thức được điều này, thử hỏi còn ai muốn làm ác, còn ai không muốn tích thiện, thế giới này dễ trở nên lương thiện hơn không? Hạnh phúc còn phải đi tìm ở đâu xa?

Riêng đối với người Phật tử phải ý thức phước báu vô cùng hy hữu mà mình đang có: phước báu được làm người và làm người con Phật. Người Phật tử không những cần duy trì phước nghiệp quý báu này trong hiện tại mà còn phải tăng trưởng cho tương lai. Muốn vậy, người Phật tử phải thực hành hằng ngày những nghi thức truyền thống theo đúng chánh pháp như quy y Tam Bảo, bố thí, trì giới, tu tập Từ-Bi-Hỷ-Xả…

Bởi lẽ chính những hành nghiệp được huân tập đều đặn, lập đi lập lại thường xuyên như vậy mới tạo nên một nghiệp thức “Đạo Phật” vững chắc, nhờ thế mới có thể thắng vượt được hấp lực của một nghiệp thức đen. Đương nhiên việc làm sung mãn một nghiệp thức thiện hạnh như vậy, vừa đem lại cuộc sống an vui cho mình và cho mọi người ngay trong hiện tại, lại vừa bảo đảm cho hành trang giải thoát về lâu dài.

Chính vì lẽ đó Đức Thế Tôn đã dạy: “Thật là như vậy, này Ananda! Thật là như vậy, này Ananda! Này Ananda, nếu do nhờ một người, mà một người khác được quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,... từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say các loại rượu men, rượu nấu, thời này Ananda, Ta nói rằng người này không có một đền ơn nào xứng đáng đối với người kia về đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay, về làm những việc thích hợp và về dâng cúng các sự cúng dường như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh” (Kinh Phân Biệt Cúng Dường, TB3, 142 = [Su.6.6]).

May mắn thay, cho đến nay, ở nhiều hội chúng nghi thức truyền thống “Quy y và thọ giới” cho người cư sĩ vẫn còn được duy trì một cách đều đặn trong các ngày Bố-tát, trong các khóa thiền, hoặc trước khi nghe pháp. Hiểu được ý nghĩa quan trọng của hành nghiệp quý báu này, mỗi người con Phật cũng nên tích cực thực hiện thường xuyên hàng ngày để củng cố nghiệp thức giải thoát cho chính mình, cho đời này lẫn cho đời sau.

Trở lại hai chi phần Thức và Danh - Sắc, nếu quán xét kỹ hơn người học Phật có thể ghi nhận thêm một nhận thức quan trọng khác nữa, đó là trong hai chi phần này có đầy đủ cả Năm Uẩn. Thật vậy, chi phần Thức là thức uẩn, chi phần Danh gồm có thọ là thọ uẩn, tưởng là tưởng uẩn, tư là hành uẩn (theo định nghĩa trong bài kinh Thủ Chuyển (TƯ3, 58 = [Ve.7.56.16]) và chi phần Sắc là sắc uẩn.

Chính vì chấp thủ năm uẩn mà các chúng sanh phải khổ đau ngay hiện tại và còn trôi lăn trong vòng sinh tử vô cùng. Hay nói cách khác “trong giới hạn ấy là lưu chuyển luân hồi hiện hữu trạng thái này trạng thái khác nghĩa là danh sắc và thức”,  từ đây tập khởi toàn bộ khổ đau, khổ đau ngay trong hiện tại lẫn ở tương lai. Do vậy, trong định nghĩa về chân lý của khổ, câu cuối cùng Đức Thế Tôn đã kết luận “Tóm lại Năm thủ uẩn là khổ” chính do duyên này mà nói.

Như đã biết ở trên, theo quy luật chung nhất: "Phàm pháp gì được tập khởi lên đều bị tiêu diệt", vì thế mỗi chi phần của hệ thống Nhân Duyên cũng cần phải quán xét như vậy và con đường duy nhất để đoạn diệt các chi phần này vẫn là Tám Chánh Đạo. Đồng thời, còn phải quán tánh sanh diệt trên các pháp 12 CPND trong mối quan hệ chặt chẽ với quy luật nghiệp quả một cách logic.

Có trí tuệ về sự sanh diệt của các pháp cũng có nghĩa là có trí tuệ về sự vô thường của vạn pháp. Ý thức về sự vô thường để luôn nỗ lực tinh tấn, không dễ duôi phóng dật là động lực quan trọng cho tiến trình đi tới giải thoát.

Chính vì thế, Đức Thế Tôn đã phải nhắc nhở những lời di giáo cuối cùng trước khi nhập Niết bàn: “Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên dạy các ngươi: "Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật(Kinh Đại Bát Niết Bàn, TrB1, 16 = [Ab.7.190]).  

Tóm lại, quán tánh sanh diệt trên các pháp 12 CPND cũng chính là tri kiến quy luật nhân quả quy luật vô thường trong tiến trình tái sanh luân hồi để đoạn trừ khổ đau do vô minh gây ra. Đây là một nhận thức rất cơ bản và trọng yếu trong Phật Pháp nhằm giải thoát khỏi khổ đau trước mắt cũng như về lâu dài.

-- “Kẻ trí thấy hành động,
Như thật là như vậy.
Thấy rõ lý Duyên khởi,
Biết rõ nghiệp dị thục.
Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi.
Nghiệp trói buộc chúng sanh,
Như trục xe quay bánh”
 (Kinh Vasettha, TB2, 98 = [So.30.60]).

-- “Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt” (PC 113).

-- Xem thêm bài kinh “Velàma” (TC IX:20, tr. 124 = [I.9.20])

(Xem tiếp phần 3)