Thursday 30 June 2011

Giải Mã Niệm Xứ 7: Quán Pháp 6 Xứ & 7 Giác Chi


PHẬT LỊCH 2555
VESAK 2600


Giải Mã Kinh Niệm Xứ
Chặng đường giải thoát khổ đau

(Phần 7: Quán pháp 6 Nội Ngoại Xứ và 7 Giác Chi)

***********

4.3   Quán pháp Sáu nội-ngoại xứ
4.3.1  Quán pháp trên các pháp sáu nội xứ
4.3.2  Quán pháp trên các pháp sáu ngoại xứ
4.3.3  Quán pháp trên các pháp sáu nội-ngoại xứ
4.3.4  Quán tánh sanh khởi, đoạn diệt, sanh diệt trên pháp sáu nội-ngoại xứ
4.4   Quán pháp Bảy giác chi

Chánh Kinh
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Tỷ-kheo tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... tuệ tri lưỡi và tuệ tri các vị... tuệ tri thân và tuệ tri các xúc... tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ.

Giải Trình
4.3 Quán pháp Sáu Nội Ngoại Xứ
Sáu nội xứ là môi trường của sáu căn với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn (bộ não). Sáu ngoại xứ là môi trường của sáu trần tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thông thường, khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, nếu không biết chánh niệm tỉnh giác và như lý tác ý, sẽ có hai xu hướng xảy ra: hoặc tham ái vì vị ngọt của các tịnh tướng như ý, hoặc khó chịu vì đối tượng bất như ý. Từ đây những dục tham và ưu phiền phát sanh và trở thành các kiết sử trói cột chúng sanh vào đau khổ đời này và đời sau. Tiến trình được lược giải như sau:
Sáu căn + sáu trần --> tham ưu --> kiết sử  
Như vậy bản thân sáu căn và sáu trần không phải là các kiết sử, mà chính dục tham và ưu phiền phát sanh khi các pháp này tiếp xúc nhau mới là các kiết sử. Nhận thức này đã được tôn giả Xá-lợi-phất xác định rõ: “-- Này Hiền giả Kotthika, con mắt không phải là kiết sử của các sắc, các sắc không phải là kiết sử của con mắt; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử…”  (tương tự với các căn và các trần khác. PNGP) (TƯ4, 162 = [Ve.8.191]). 
Đến đây, vấn đề cần xác định là sáu nội ngoại xứ tạo nên các kiết sử gì và làm thế nào để chặt đứt chúng? Muốn giải mã được các pháp này, cần phân tích quán xét sáu xứ theo từng phần thuộc nội pháp, ngoại pháp và nội-ngoại pháp.

4.3.1 Quán pháp trên các pháp sáu nội xứ
Như sự phân tích của Đức Thế Tôn trong kinh điển Nikaya, khi mắt thấy sắc có sự nhận biết nơi mắt tức nhãn thức sanh khởi, khi tai nghe tiếng có sự nhận biết bằng tai tức nhĩ thức sanh khởi, khi mũi ngửi hương - tỷ thức sanh khởi, khi lưỡi nếm vị - thiệt thức sanh khởi, khi thân xúc chạm sự vật - thân thức sanh khởi; và khi ý căn tiếp xúc các pháp - ý thức sanh khởi.
Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức nếu không có chánh niệm tỉnh giác đi kèm sẽ luôn có xu hướng tăng trưởng tự nhiên theo chiều của bản năng dục. Chính vì thế năm thức thuộc dục này còn được gọi là năm dục trưởng dưỡng và chúng đều quy hướng về ý thức để tạo ra ý thức dục. Tuy nhiên, trong ý thức còn có khuynh hướng thứ hai là ý thức vô dục được hình thành do tiếp xúc với Phật pháp. Cho nên nói sáu căn, sáu trần, sáu thức nhưng chỉ có năm dục trưởng dưỡng là vì vậy.
Năm dục trưởng dưỡng chính là kiết sử của sáu nội-ngoại xứ, chúng vừa làm tăng trưởng ý thức dục vừa là nguyên nhân dẫn đến khổ đau theo tiến trình của 12 Chi Phần Nhân Duyên: sáu xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết sầu bi khổ ưu não (Xem giải mã hệ thống pháp Nhân Duyên).
Vì năm dục trưởng dưỡng luôn có khuynh hướng tự nhiên của bản năng, do đó cách tốt nhất để kềm thúc, đoạn trừ kiết sử này là phải thực hành pháp hộ trì các căn. Thả lỏng các căn tiếp xúc thoải mái với các cảnh trần khiến cho năm dục trưởng dưỡng từ đó dẫn đến ý thức được thanh tịnh là điều không thể xảy ra. Điều này ví như một vị tướng trấn giữ thành trì có sáu cửa thành nhưng lúc nào cũng mở rộng để cho bọn giặc cướp ra vào thoải mái trong thành trì, thì việc gìn giữ cho thành trì được an ổn thanh bình là điều không bao giờ có (trừ khi vị tướng là người hay nói dối, thích báo cáo sai sự thật vì những ý đồ riêng tư).
Do vậy, vị tướng quân chân chánh muốn giữ yên thành trì thì việc quan trọng bức thiết hàng đầu là phải kiểm soát chặt chẽ sáu cửa thành, phải luôn tỉnh giác chánh niệm chỉ cho vào thành những người dân lương thiện và ngăn chặn tích cực bọn giặc cướp. Có thực hiện bảo vệ nghiêm nhặt các cổng thành từ đó mới giúp cho thành trì được yên ổn là điều hoàn toàn khả thi.
Trong bài kinh Đờn Tỳ Bà (TƯ4, 195 = [Ve.8.205]) Đức Thế Tôn đã cho một ví dụ rất cụ thể về mối quan hệ giữa hộ trì các căn, năm dục trưởng dưỡng (hay năm dục công đức) và thiền định: “Ví như, này các Tỷ-kheo, lúa mì đã chín và một người giữ lúa mì phóng dật (lơ đãng). Có con bò ăn lúa mì, xâm phạm lúa mì, xâm phạm lúa mì ấy và mê say ăn một cách thỏa thích. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không hộ trì đối với sáu xúc xứ, mê say thọ dụng một cách thỏa thích đối với năm dục công đức.
Ví như, này các Tỷ-kheo, lúa mì đã chín và một người giữ lúa mì không phóng dật. Có con bò ăn lúa mì, xâm phạm lúa mì ấy. Người giữ lúa mì nắm chắc cái lỗ mũi của con bò; sau khi nắm chắc cái lỗ mũi, người ấy rị chặt trên cái trán. Sau khi rị chặt trên cái trán, với cái gậy, người ấy đánh con bò một trận nên thân. Sau khi lấy gậy đánh cho một trận nên thân, người ấy thả con bò đi…
 Như vậy, này các Tỷ-kheo, con bò ăn lúa mì ấy đi vào làng, hay đi vào rừng, hay khi đứng, hay ngồi, nó không xâm phạm lúa mì ấy, vì nó nhớ đến cảm xúc cái gậy lần trước. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo có tâm chơn trực, chánh trực đối với sáu xúc xứ, thời nội tâm được an trú, tịnh chỉ, nhứt tâm, Thiền định”.
Do vậy, khi và chỉ khi, một Tỳ-kheo đã thành tựu Tam Vô Lậu Học, đã tu tập thuần thục sự hộ trì các căn mới có thể yên tâm trước năm dục trưởng dưỡng. Tuy vậy vị này vẫn tiếp tục hộ trì các căn để làm gương cho những người theo sau. Ngược lại, một Tỳ-kheo còn hữu học nhưng nếu cứ thả lỏng các căn, thoải mái tiếp xúc với các cảnh trần để cho năm dục trưởng dưỡng thì không thể giữ cho ý thức thanh tịnh để nhập Thánh thiền định của Đạo Phật và có được tri kiến chân thực.  
- “Với căn không phòng hộ, này các Tỷ-kheo, với người khiếm khuyết phòng hộ các căn giới đi đến hủy hoại; với giới không có, với ai khiếm khuyết về giới, chánh định đi đến hủy hoại. Với chánh định không có, với ai khiếm khuyết chánh định, tri kiến như thật đi đến hủy hoại…” (TC VI:50, tr.133 = [I.6.50])
- “Ai sống không nhiếp hộ nhãn căn, này các Tỷ-kheo, thời tâm người ấy bị nhiễm ô (vyàsincati) đối với các sắc do mắt nhận biết. Với người tâm bị nhiễm ô thời không có hân hoan. Do không có hân hoan nên không có hỷ. Do không có hỷ nên không có khinh an. Do không khinh an nên khổ an trú. Với người đau khổ, tâm không có thể định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, các pháp không hiển lộ. Do các pháp không hiển lộ, người ấy được gọi là người trú phóng dật...” (Tương tự với nhĩ căn… tỷ căn… thiệt căn… thân căn… ý căn… PNGP) (TƯ4, 78 = [Ve.8.96])
Ngược lại, vị Tỳ-kheo phải luôn cố gắng kiểm soát hộ trì các căn chặt chẽ để kềm thúc không cho năm dục trưởng dưỡng lôi kéo. Đây là điều hết sức quan trọng nhằm giúp cho thân tâm tịnh lạc, an trú trong chánh định để đi tới giải thoát:
“…Ai sống nhiếp hộ nhãn căn, tâm không bị nhiễm ô đối với các sắc do mắt nhận biết. Với người tâm không bị nhiễm ô thời hân hoan sanh. Do có hân hoan nên hỷ sanh. Do có hỷ sanh nên thân được khinh an. Do thân khinh an nên cảm giác lạc thọ. Với người an lạc, tâm được định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp được hiển lộ. Do các pháp được hiển lộ, người ấy được gọi là người an trú không phóng dật... Ai sống nhiếp hộ nhĩ căn... tỷ căn... thiệt căn… thân căn… ý căn...” (Sđd)
Tóm lại, luôn ý thức quán xét, suy tư và tu tập kiểm soát phòng hộ chặt chẽ sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý căn chính là phương pháp quán pháp hộ trì các căn trên các pháp sáu nội xứ để khắc phục tham ưu do năm dục trưởng dưỡng gây ra.

4.3.2 Quán pháp trên các pháp sáu ngoại xứ
Như đã được biết, khi sáu căn tiếp xúc sáu trần nếu không phòng hộ, không chánh niệm tỉnh giác để cho tham ưu khởi lên là đã bị kiết sử trói cột. Tham dục tăng trưởng đến độ phải chiếm hũu, sở hữu một hay nhiều đối tượng để thoả mãn cho các căn môn một cách phi pháp được gọi là hữu tham kiết sử (Trong kinh Nikaya còn có nhiều cách gọi khác như: hữu kiết sử, hữu ái kiết sử, sanh hữu kiết sử…)
Theo định nghĩa trong pháp Nhân Duyên, có ba loại hữu tham kiết sử:
-- Dục hữu tham kiết sử là những tham hữu theo chiều bản năng nhục dục.
-- Sắc hữu tham kiết sử là những tham ái các vật sở hữu có hình tướng, hình sắc như tài sản, tiền bạc, nhà cửa, xe cộ v.v…
-- Vô sắc hữu tham kiết sử là tham ái những đối tượng không có hình tướng, hình sắc như danh vọng, chức vị, quyền thế, đạo danh, đạo vị, tà kiến, chư Thiên v.v…
Sắc hữu tham kiết sử và Vô sắc hữu tham kiết sử còn được gọi tắt là hữu và phi hữu. Do có liên hệ đến các pháp bên ngoài, nên Sáu Nội Ngoại Xứ được xếp trong hệ thống quán pháp, và hữu tham kiết sử là một trong năm thượng phần kiết sử.
(Riêng về năm thượng phần kiết sử, có bài kinh ghi là: Sắc tham, vô sắc tham, mạn, trạo cử và vô minh. Ở đây sắc tham cần được hiểu là hữu tham kiết sử, vô sắc tham chính là ái kiết sử, trạo cử (vốn là triền cái) cần được hiểu là tà kiến kiết sử. Như vậy, năm thượng phần kiết sử bao gồm: hữu tham kiết sử, ái kiết sử, mạn kiết sử, tà kiến kiết sửvô minh kiết sử. Sở dĩ có sự sai khác này là do “tam sao thất bổn”)
Theo phân loại về hữu tham kiết sử ở trên, một tu sĩ đã ly gia cắt ái, tuy có cơ sở để đoạn dứt dục hữu kiết sử, nhưng nếu không cắt đứt “sắc hữu” và “vô sắc hữu” kiết sử, thì vị tu sĩ này vẫn còn phải bị hệ lụy phiền não trước mắt lẫn về lâu dài. Đạo Phật không chủ trương khổ hạnh cực đoan nhưng cũng không xu hướng một chiều theo lợi dưỡng. Vì vậy đối với các sắc hữu và vô sắc hữu bên ngoài, vị Tỳ-kheo không tham đắm khi được như ý, nhưng cũng không ưu phiền khi không được như ý. Và cho dù là những sanh hữu nhỏ nhặt, vị Tỳ-kheo vẫn phải cảnh giác với chúng. Bởi lẽ các hữu tham kiết sử biểu hiện rất đa dạng, đôi khi rất nhỏ nhiệm vi tế nhưng lại rất nguy hiểm.
Mắt còn tham luyến sắc, tai còn tham luyến thanh, các căn còn tham luyến các trần đến độ phải tìm kiếm, chiếm hữu những vật chất này để thỏa mãn, thì đây chính là biểu hiện của sự trói cột bởi sắc hữu tham kiết sử.
Trong kinh Nikaya có rất nhiều bài kinh nói đến sự nguy hại của Hữu tham kiết sử. Trong số đó, đáng kể có một bài kinh thuộc Tương Ưng Ác Ma với sự kiện được ghi lại như sau: có một lần các Tỳ-kheo đang hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tâm tư, lóng tai nghe pháp”, ngay lúc ấy một con bò đực xuất hiện khiến có vị Tỳ-kheo phải bất an lo lắng. Sở dĩ vị Tỳ-kheo này phải xao lãng, mất sự định tâm là vì sợ con bò đạp bể các bình bát đang phơi ngoài sân.
Chỉ vì một cái bình bát nhỏ nhoi tầm thường nhưng nếu còn dính mắc tham hữu vào đó đã làm cho vị Tỳ-kheo phải rung động sợ hãi; thì các tài sản lớn hơn, danh vọng cao hơn còn khiến người ta lo âu phiền não tới đâu? Quả thật, Hữu tham kiết sử chính là một loại “Ác Ma” nguy hiểm đối với người tu sĩ muốn tìm kiếm sự giải thoát chân chánh.
Đề Bà Đạt Đa cũng từ bỏ hoàng cung, xuất gia làm sa-môn và đạt được một số thiền chứng. Thế nhưng vì ông đã không đoạn dứt được vô sắc hữu tham nơi chức danh giáo chủ Tăng đoàn, nên ông phải trở lui ác đạo. Đây là một điển hình nguy hại mà mọi Tỳ-kheo phải ghi nhớ để cảnh giác đoạn trừ.
Cũng vậy, một trưởng lão cố giữ cho được chức vị trong giáo hội hoặc ngoài xã hội để có được nhiều lợi dưỡng cung kính, tới đâu cũng muốn mọi người biết được học vị, danh vị của mình, điều này chỉ chứng tỏ vị trưởng lão vẫn còn bị vô sắc hữu kiết sử cột trói nơi ý. Nếu còn những sanh hữu như vậy, ngay trong hiện tại vị Tỳ-kheo sẽ bị nhiều chướng duyên khiến tâm không được an trú, thân không được an lạc, khó chứng nhập các trạng thái giải thoát của bậc vô dục.
Bên cạnh đó, các Tỳ-kheo không tham đắm chuyện thế sự, không bao đồng chuyện thế sự, đây chính là pháp đầu tiên trong bảy nguyên nhân giúp Tăng đoàn lớn mạnh, không bị suy giảm:Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích làm thế sự, không hoan hỷ làm thế sự, không đam mê làm thế sự, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm” (bài kinh “Công việc”, số 22, TC3, C7, Phẩm Bạt kỳ = [I.7.22]).
Chỉ cần ưa thích làm thế sự thôi đã khiến vị Tỳ-kheo bị suy giảm, huống hồ vị Tỳ-kheo ôm giữ các chức vụ thế sự, các danh vị thế gian. Chính vì lẽ đó, trong kinh văn Đức Thế Tôn đã chỉ trích việc bàn luận đến những chuyện thị phi thế sự. Còn trong tạng Luật, vị Tỳ-kheo có những liên hệ với việc quân, binh lính bị phạm tội Ưng đối trị (điều 48, 49, 50).
Như đã được biết ở phần trước, khi các sắc – thanh – hương – vị – xúc – pháp được nhận thức bởi các căn, nếu không tỉnh giác – chánh niệm, thì năm dục trưởng dưỡng phát sinh sẽ có xu hướng theo chiều của bản năng dục và sẽ quy hướng về ý thức để tạo thành ý thức dục. Chính ý thức dục này tạo ra các niệm tham-sân-si để từ đó dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não.
Một sắc pháp tầm thường, tuy không đáng giá nhưng con mắt vẫn còn dính mắc vào nó nên nhãn thức dục vẫn còn trưởng dưỡng. Nhãn thức dục tăng trưởng sẽ khiến ý thức dục vẫn còn duy trì (tùy miên, ngủ ngầm), và vì thế tiềm thức vẫn còn phát sanh các niệm bất thiện khác. Một điệu nhạc, một danh xưng, một học vị dù nhỏ nhoi tầm thường, chẳng ra gì nhưng một khi đã dính mắc tham ưu vì nó, thì ý thức phải “tâm viên ý mã” chộn rộn suốt cả ngày chứ làm sao hàng phục được.
Chính vì lẽ đó, không cảnh giác, không thấy sự nguy hiểm của sáu ngoại xứ, và các căn còn bị cột trói bởi các cảnh trần dù là nhỏ nhiệm, mà đi tìm sự định tâm thực sự theo Thánh định là điều không thể xảy ra. Nếu có chăng, thì đó chỉ là tà thiền tà định mà thôi. Do vậy, đối với Tỳ-kheo đệ tử Phật, phải đoạn dứt sợi dây hữu tham kiết sử là điều kiện tất yếu cho sự giải thoát chân chánh ngay trong hiện tại. 
Hơn thế nữa, còn bị trói cột bởi hữu tham kiết sử không những hiện tại bị nhiều bất an sợ hãi mà trong tương lai còn có nguy cơ phải tái sanh luân hồi trong những cảnh giới nguy hiểm: Thật tốt hơn, này các Tỷ-kheo, nếu nhãn căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa ngọn. Như vậy, không có chấp thủ tướng riêng, không chấp thủ tướng chung đối với các sắc do mắt nhận thức.
Này các Tỷ-kheo, thức có thể vững trú, kiên trú, bị trói buộc bởi vị ngọt tướng chung hay bị trói buộc bởi vị ngọt tướng riêng. Trong thời gian ấy, nếu mệnh chung, thời sự kiện này xảy ra: Ði thác sanh vào một trong hai sanh thú này: địa ngục hay bàng sanh. Này các Tỷ-kheo, do thấy nguy hiểm này, Ta nói như vầy: Thật tốt hơn, này các Tỷ-kheo, nếu nhĩ căn bị hủy hoại với một cái dùi bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa ngọn…(Trích lược TƯ4, 168 = [Ve.8.194]) (Tương tự với các căn và các trần khác với những chi tiết thích đáng. PNGP)   
Từ các nhận thức trên sẽ dễ dàng hiểu được vì sao Đức Thế Tôn luôn căn dặn các Tỳ-kheo phải thấy được sự nguy hiểm ngay trong những lỗi nhỏ nhặt. Thậm chí Đức Phật còn xác quyết “Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của sáu xúc xứ; vị ấy không thành tựu Phạm hạnh, còn đứng xa Pháp và Luật này” (TƯ4, 43 = [Ve.8.71]).
Đến đây người tu Phật dễ dàng hiểu được vì sao ngay trong phần đầu bài kinh Niệm Xứ, vị Tỳ-kheo tu tập chánh niệm cần “đi đến khu rừng vắng, ngôi nhà trống”: đó là vì “khu rừng vắng” là nơi sáu xúc xứ không có duyên tác động và “ngôi nhà trống” là biểu hiện của hữu tham kiết sử vắng mặt.
Riêng cụm từ “Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời” được lập đi lập lại đến 16 lần trong toàn bộ bài kinh Niệm Xứ đã nói lên ý nghĩa quan trọng của mối quan hệ giữa bản thân và môi trường bên ngoài, và cũng là yêu cầu không thể thiếu trong quá trình tu tập thanh tịnh tâm. Còn sống nương tựa vật gì, chấp trước điều gì là còn bị phụ thuộc dính mắc vật ấy, điều ấy. Còn bị phụ thuộc và dính mắc thì khó có thể tìm tới giải thoát triệt để Niết Bàn.
Tóm lại, phải quán xét để thấy rõ vị ngọt, sự nguy hiểm của sáu ngoại xứ. Đồng thời quán xét xem các căn có bị dính mắc, tham đắm, chấp trước tướng chung, tướng riêng của các cảnh trần nào không. Nếu có, phải tích cực đoạn trừ để thoát ly khỏi vị ngọt của sáu ngoại xứ đó. Đây là nội dung ý nghĩa của cách quán pháp vị ngọt, sự nguy hiểm trên các pháp sáu ngoại xứ để khắc phục tham ưu do hữu tham kiết sử gây ra. 

4.3.3 Quán pháp trên các pháp sáu nội-ngoại xứ
Đây là cách quán kết hợp của hai cách quán vừa nêu. Nói chung khi các căn tiếp xúc với các trần, một mặt phải thực hiện hộ trì các căn để đoạn trừ năm dục trưởng dưỡng; đồng thời phải cảnh giác với vị ngọt, sự nguy hiểm của sáu ngoại xứ để không bị dính mắc trói cột bởi hữu tham kiết sử.
Hơn nữa, vì hậu quả của sáu nội ngoại xứ rất đa dạng và phức tạp nên trong rất nhiều bài kinh phần Tương Ưng Sáu Xứ, Đức Thế Tôn đã dạy thêm các cách quán khác, trong đó đặc biệt nhắc nhở nhiều lần cách quán pháp vô thường, khổ, vô ngã trên sáu nội-ngoại xứ. Người học Phật cần đọc kỹ các bài kinh này để nắm vững các chi tiết và hiểu rõ hơn ý nghĩa cụ thể của phương pháp.
Ở đây chỉ giới thiệu một cách khái quát như sau: cần phải quán các pháp mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý căn và sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là vô thường. Vì vô thường nên bản chất của chúng là khổ đau. Vì khổ đau nên không được chấp thủ sáu nội-ngoại xứ là của ta, là ta, là tự ngã nơi ta và dựa vào đó hơn thua với đời (cũng có nghĩa vô ngã chấp và vô ngã mạn).
Theo chiều hướng này, có thể nói bài kinh Thắng (TƯ4, 88 = [Ve.8.107]) là bài kinh tiêu biểu cho cách quán vô thường, khổ, và một lần nữa chứng minh khái niệm vô ngã của đạo Phật chính là vô ngã mạn. Nơi phần đầu bài kinh này, Đức Phật đã giải thích (trích tóm lược):
“Này các Tỷ-kheo, do có mắt, do chấp thủ mắt, do thiên chấp mắt nên có: "Thắng hơn là tôi”, "Ngang bằng là tôi” hay "Thấp kém là tôi”... Do có tai… Do có mũi… Do có lưỡi…Do có thân… Do có ý, do chấp thủ ý, do thiên chấp ý nên có: "Thắng hơn là tôi”, "Ngang bằng là tôi” hay "Thấp kém là tôi”... ”
Sau đó Đức Phật đã dạy cách quán vô thường, khổ trên sáu căn và cuối cùng đi đến kết luận theo chiều hướng vô ngã mạn để đoạn trừ khổ đau:
“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời (có thể) có ý nghĩ: "Thắng hơn là tôi”, "Ngang bằng là tôi” hay "Thấp kém là tôi” không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... tai…mũi…lưỡi…thân… nhàm chán đối với ý. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa” (Trích tóm lược).
Nhàm chán sáu căn cũng có nghĩa là không chấp thủ sáu nội xứ, nhờ không chấp thủ nên ly tham, nhờ ly tham nên giải thoát. Đối với sáu ngoại xứ (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) cũng thế. Tất cả tài sản, địa vị, danh vọng, lợi dưỡng, cung kính... cũng phải được quán theo chiều hướng vô thường - khổ - vô ngã. Cần thấy rõ tánh vô thường và bản chất là khổ đau nên nhàm chán các ngoại pháp này, không còn ngã chấp và ngã mạn với chúng, từ đó mới ly tham để giải thoát khỏi sự ràng buộc của chúng.
Như đã nói ở trên, đối với người tu sĩ mặc dù đã xuất gia nên có điều kiện chặt đứt được sợi dây dục hữu kiết sử, nhưng vẫn cần phải ý thức sự nguy hiểm của sắc hữu kiết sử và vô sắc hữu kiết sử để đoạn dứt hoàn toàn sự trói cột của hữu tham kiết sử. Đừng để quá muộn khi sanh tử gần kề, phải chịu khổ đau bên giường bệnh, kiệt sức đến độ hơi thở của bản thân cũng không cầm giữ được, lúc ấy dù có là vua chúa hay tỷ phú cũng phải chấp nhận sự thật nghiệt ngã: sáu nội-ngoại xứ, sắc thân, tài sản, danh lợi... tất cả chỉ là vô thường, khổ đau và vô ngã.
Những trạng thái khổ đau vì cận tử nghiệp của gia chủ Cấp Cô Độc trong bài kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc (TB3,143 = [Vd.7]) cũng là lời giáo giới cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta. Chính vì đã hiểu được ý nghĩa của pháp môn sáu nội-ngoại xứ, dù có quá trễ, mà cư sĩ Cấp Cô Độc - một vị trưởng giả giàu có nhất đương thời - trước khi nhắm mắt đã thỉnh cầu pháp môn này được giảng dạy cho cả hàng cư sĩ tại gia. Chắc hẳn vị đại trưởng giả mong mỏi mọi người hãy sớm trở thành những đóa hoa sen, sớm vượt lên trên mặt nước đón nhận ánh sáng Chánh Pháp để giải thoát ngay trong kiếp sống này, chứ không phải nhỏ những giọt nước mắt muộn màng bên những đống tài sản như ông.
Tóm lại các pháp hộ trì các căn, vị ngọt sự nguy hiểm, vô thường - khổ - vô ngã… là những thiện pháp đối trị trong cách quán sáu nội-ngoại xứ, và nói theo ngôn ngữ Bốn Niệm Xứ, đây là cách quán Pháp đối trị trên các pháp sáu nội-ngoại xứ để khắc phục tham ưu do năm dục trưởng dưỡng, hữu tham kiết sử và chấp mạn kiết sử gây ra.

4.3.4 Quán tánh sanh khởi, tánh đoạn diệt, tánh sanh diệt trên pháp sáu nội ngoại xứ
Trong kinh điển Nikaya, Đức Thế Tôn dạy rất nhiều các các quán tánh sanh khởi, tánh đoạn diệt và tánh sanh diệt trên sáu nội ngoại xứ theo nhiều phương pháp phân tích khác nhau. Ở đây chỉ lược trích một vài bài kinh như ví dụ tiêu biểu cho cách quán sanh khởi và đoạn diệt trên sáu nội ngoại xứ dựa theo pháp Nhân Duyên:
“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ tập khởi? Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên… Do duyên tai và các tiếng, nhĩ thức khởi lên... Do duyên mũi và các hương, tỷ thức khởi lên... Do duyên lưỡi và các vị, thiệt thức khởi lên... Do duyên thân và các xúc, thân thức khởi lên...  Do duyên ý và các pháp, ý thức khởi lên. Do ba cái tụ hội, nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Này các Tỷ-kheo, đây là khổ tập khởi.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ đoạn diệt? Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ hội, nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, đây là khổ đoạn diệt.
Do duyên lỗ tai và các tiếng, nên nhĩ thức sanh khởi... Do duyên mũi và các hương, nên tỷ thức sanh khởi... Do duyên lưỡi và các vị nên thiệt thức sanh khởi...Do duyên thân và các xúc nên thân thức sanh khởi... Do duyên ý và các pháp nên ý thức sanh khởi. Do ba cái tụ họp nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này” (TƯ2, 71 = [U.51.43]).
Điều cần lưu ý thêm, theo cách quán sáu nội ngoại xứ nêu trên, các chi phần “xúc” và “thọ” không đoạn diệt mà chỉ đoạn diệt “tham ái” phát sanh. Bởi lẽ, khi sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sanh cảm thọ là chuyện tất nhiên. Thế nhưng trong quá trình này, “xúc” và “thọ” vẫn chưa phải là kiết sử, chỉ có “ái” mới là kiết sử và tập khởi khổ đau nên mới cần đoạn diệt. Còn trong những trường hợp khác, nếu “xúc” và “thọ” là nguyên nhân tập khởi khổ đau thì phải đoạn diệt cả hai chi phần này. Có phân biệt rõ những khác biệt này mới thấy các pháp tu một chiều ngăn chặn tất cả các xúc theo kiểu “có mắt như mù, có tai như điếc, có miệng như câm” là không đúng với chánh lý của chánh pháp.
Người tu Phật hãy tìm đọc và học thuộc bài kinh V. Nàtika (TƯ2, 84 = [U.51.45]) để biết phương pháp tu tập pháp môn quán tánh sanh khởi và đoạn diệt sáu nội ngoại xứ. Theo bài kinh này ghi lại, chính Đức Phật đã tự thân giáo hóa bằng cách trong lúc thiền tịnh độc cư Ngài đã đọc lên pháp môn này như một hình thức của Như lý tác ý. Một Tỳ-kheo khác đứng ngoài lắng nghe, sau đó được Đức Phật khuyến giáo: “-- Này Tỷ-kheo, Ông hãy học pháp môn này. Này Tỷ-kheo, Ông hãy học thuộc lòng pháp môn này. Này Tỷ-kheo, pháp môn này liên hệ đến mục đích và căn bản Phạm hạnh” [Bài kinh này xếp sau bài kinh Thế Giới (TƯ2, 73)]
Quán sanh diệt trên sáu nội ngoại xứ cũng là quán thấy sự vô thường của các căn và các trần cũng có nghĩa là minh sanh khởi: “Này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết mắt, thấy mắt là vô thường nên vô minh đoạn tận, minh sanh khởi... thấy tai... thấyt mũi... thấy lưỡi…thấy thân… thấy ý căn là vô thường…” (TƯ4, 49 = [Ve.8.79]). Vì thấy sáu xứ đều vô thường từ đó mới nhàm chán, có nhàm chán mới ly tham, có ly tham mới đoạn diệt được dục tham phát khởi từ các thức:
“Nếu Tỷ-kheo quán sanh diệt trong nhãn căn, vị ấy nhàm chán đối với nhãn căn... trong nhĩ căn... trong tỷ căn... trong thiệt căn... trong thân căn... Nếu Tỷ-kheo quán sanh diệt trong ý căn, vị ấy nhàm chán đối với ý căn. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí biết rằng: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ rằng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”  (TƯ4, 140 = [Ve.8.152]).
Cần nhắc lại, trong kinh Tương Ưng có hẳn nhiều chương liên quan đến pháp Sáu Xứ với rất nhiều bài kinh quý giá. Người học Phật cần đọc kỹ và ghi nhớ để tích cực thực hành học pháp rất quan trọng này. Chính Đức Thế Tôn trong bài kinh Sakka (TƯ4, 101 = [Ve.8.117]) đã xác nhận học pháp này chính là căn bản của sự thể nhập được hay không được Niết Bàn ngay trong kiếp hiện tại. Một tu sĩ chân chính, biết coi trọng phạm hạnh và có kinh nghiệm tu tập không thể xem thường học pháp này.
Tóm lại, “Có những pháp ở đây” là các pháp hộ trì các căn, pháp quán vị ngọt sự nguy hiểm của sáu xứ, pháp vô thường-khổ-vô ngã, pháp sanh diệt trên sáu xứ, pháp như lý tác ý. Phải biết quán các pháp này để ngăn chặn, đoạn trừ, tẩy rửa các niệm thuộc năm dục trưởng dưỡng, hữu tham kiết sử và chấp mạn kiết sử tuỳ miên tiềm ẩn nơi sáu nội ngoại xứ. Đồng thời nếu các niệm bất thiện liên quan đến sáu căn, sáu trần vừa phát khởi thì ngay đó phải quán pháp tương ưng để diệt trừ.
Đây là ý nghĩa nội dung của đoạn kinh "Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ.

Quán Pháp Bảy Giác Chi
Chánh Kinh
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có Niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có Niệm giác chi”; hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ý Niệm giác chi". Và với Niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với Niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay Tỷ-kheo nội tâm có Trạch pháp giác chi... (như trên)... hay nội tâm có Tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có Hỷ giác chi... (như trên)... hay nội tâm có Khinh an giác chi... (như trên)... hay nội tâm có Định giác chi... (như trên)... hay nội tâm có Xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có Xả giác chi”; hay nội tâm không có Xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có Xả giác chi”. Và với Xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với Xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi.

Giải Trình
4.4  Quán Pháp Bảy Giác Chi
Trong bài kinh số 72, Tương Ưng 5, một Tỳ-kheo đã hỏi Đức Thế Tôn như thế nào là giác chi. Đức Phật đã trả lời cụ thể: “Này Tỷ-kheo, chúng đưa đến giác ngộ, do vậy, chúng được gọi là các giác chi… Do vị ấy tu tập Bảy Giác Chi này, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu…” [Ve.9.5].
Như vậy, Bảy Giác Chi là bảy chi phần giúp đi tới giác ngộ nhờ giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Và Bảy Giác Chi là những học pháp phải hiểu rõ để theo đây tu tập chứ không phải tự dưng mà có.
Căn cứ vào các bài kinh Thân (TƯ5, 64 = [Ve.9.2]), Giới (TƯ5, 67 = [Ve.9.3]), Pháp Môn (Pariyàya) (TƯ5, 108 = [Ve.9.52]), Nhập Tức Xuất Tức Niệm (TB3, 118 = [U.37]), bước đầu nhận thức về các chi phần đi tới giác ngộ như sau:
-- Niệm giác chi: là niệm tỉnh giác, không bị hôn mê, thường nhớ nghĩ, suy tầm chánh pháp. Có hai loại Niệm giác chi là niệm giác chi theo nội pháp và niệm giác chi theo ngoại pháp.
-- Trạch pháp giác chi: trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát, quán sát các pháp; biết phân biệt rõ các pháp thiện và pháp bất thiện, các pháp không có tội và có tội, các pháp thắng và liệt, các pháp trắng và đen. Có hai loại Trạch pháp giác chi là trạch pháp theo hướng nội pháp và trạch pháp theo hướng ngoại pháp.
-- Tinh tấn giác chi: là sự nỗ lực tinh cần không có thụ động theo ba trạng thái phát cần giới (àrambhadhàtu), tinh cần giới (mikkamadhàtu), cần dõng giới (parakkamadhàtu). Có hai loại Tinh tấn giác chi là thân tinh tấn và tâm tinh tấn.
-- Hỷ giác chi: là sự hân hoan, hoan hỷ không liên hệ đến vật chất. Có hai loại Hỷ giác chi là hỷ có tầm có tứ (hỷ do ly dục của sơ thiền) và hỷ không tầm không tứ (hỷ do định từ nhị thiền trở lên).
-- Khinh an giác chi: là trạng thái an lạc, thanh thản. Có hai loại Khinh an giác chi: thân khinh an và tâm khinh an.
-- Định giác chi: là sự định tĩnh, nhất tâm. Có hai loại Định giác chi: định có tầm có tứ (định của sơ thiền) và định không tầm không tứ (định từ nhị thiền trở lên). Định giác chi phát khởi từ tịnh chỉ tướng và bất loạn tướng.
-- Xả giác chi: là khéo trú xả nhìn (sự vật). Có hai loại Xả giác chi là xả đối với nội pháp và xả đối với ngoại pháp.
Các chi phần giác ngộ này có liên hệ mật thiết với nhau theo chiều sanh khởi. Khi Niệm giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn sẽ làm sanh khởi Trạch pháp giác chi. Trạch pháp giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn sẽ làm sanh khởi Tinh tấn giác chi. Tinh tấn giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn sẽ làm phát khởi Hỷ giác chi. Hỷ giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn sẽ làm sanh khởi Khinh an giác chi. Khinh an giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn sẽ làm sanh khởi Định giác chi. Định giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn sẽ làm sanh khởi Xả giác chi.
Để dễ nhớ, có lược đồ tóm tắt: Niệm giác chi --> Trạch pháp giác chi --> Tinh tấn giác chi --> Hỷ giác chi --> Khinh an giác chi --> Định giác chi --> Xả giác chi
Và Bảy giác chi này được tu tập, làm cho sung mãn sẽ dẫn tới quả Minh và Giải thoát (TƯ5, 94 = [Ve.9.38]). Có hai pháp giúp cho Bảy giác chi sanh khởi đó là Như lý tác ý (đối với nội chi phần) và làm bạn với thiện (đối với ngoại chi phần) (TƯ5, 101 + 102 = [Ve.9.49/50]).
Bên cạnh đó, các chi phần này cần phải được áp dụng thích hợp trong từng trạng thái của thân và tâm khi bị thụ động hay bị dao động trạo cử, ngoại trừ niệm giác chi. Trong bài kinh Lửa, Đức Thế Tôn đã dạy rõ ý nghĩa này:
“Trong khi tâm thụ động, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, không phải thời là tu tập khinh an giác chi, không phải thời là tu tập định giác chi, không phải thời là tu tập xả giác chi. Vì sao? Khi tâm thụ động, này các Tỷ-kheo, thật khó làm tâm phát khởi nhờ những pháp này.
-- Và này các Tỷ-kheo, trong khi tâm thụ động, trong khi ấy, phải thời là tu tập trạch pháp giác chi, phải thời là tu tập tinh tấn giác chi, phải thời là tu tập hỷ giác chi. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, khi tâm thụ động, thật dễ làm tâm phát khởi nhờ những pháp này.
-- Và này các Tỷ-kheo, trong khi tâm dao động, trong khi ấy, không phải thời là tu tập trạch pháp giác chi, không phải thời là tu tập tinh tấn giác chi, không phải thời là tu tập hỷ giác chi. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, tâm dao động, thật khó được tịnh chỉ do những pháp ấy.
-- Và này các Tỷ-kheo, trong khi tâm dao động, trong khi ấy, phải thời là tu tập khinh an giác chi, phải thời là tu tập định giác chi, phải thời là tu tập xả giác chi. Vì sao? Vì rằng, tâm dao động thật dễ được tịnh chỉ nhờ những pháp này”.
Nhưng đối với niệm, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng lợi ích trong mọi trường hợp…” (Trích lược TƯ5, 112 = [Ve.9.53])
Về pháp Bảy Giác Chi còn có rất nhiều các nội dung ý nghĩa thiết thực khác nữa đã được Đức Phật chỉ dạy cụ thể trong kinh Nikaya, đặc biệt trong phần Tương Ưng các Giác chi. Do vậy để giải mã hệ thống này, cách tốt nhất là người học Phật cần đọc kỹ các bài kinh liên hệ đến pháp Bảy Giác Chi, phân tích quán xét chúng theo các cách đã được giới thiệu ở các phần trên để biết cách tu tập cho đúng.
***
 (Xem tiếp phần 8: Quán Pháp Bốn Thánh Đế)